Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013


Niềm tin là định hướng giá trị được xác định vững chắc trong nhận thức và chi phối hành động của cá nhân. Niềm tin có vai trò hết sức quan trọng đối với con người. Nó không chỉ tác động đến trí tuệ mà còn tác động đến tình cảm. Niềm tin có thể làm thay đổi ý thức, động cơ và lối sống của cá nhân. Đối với bất kỳ tôn giáo nào, niềm tin tôn giáo bao giờ cũng chiếm vị trí trung tâm. Thuật ngữ “tín đồ” trong ý thức của chúng ta đồng nghĩa với khái niệm “con người có niềm tin tôn giáo”. Việc tìm hiểu niềm tin tôn giáo có một vị trí đặc biệt trong việc nghiên cứu những khía cạnh tâm lý của tôn giáo. Bởi lẽ, nó là một trong những đường nét chính trong việc phác thảo chân dung tâm lý của những người theo tôn giáo. Mặt khác, việc nghiên cứu này sẽ góp phần làm sáng tỏ bản chất của tôn giáo.

Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng đã chú ý đến mối liên hệ giữa niềm tin tôn giáo và các trạng thái tâm lý của con người. Nhà triết học Đêmôcrit (khoảng 460 - 370 TCN) cho rằng, con người thường rơi vào những hoàn cảnh khó khăn, họ khó có thể khắc phục được, họ dao động giữa niềm hy vọng và sợ hãi. Do vậy, con người đã tin vào các lực lượng không tồn tại trên thực tế để tìm kiếm sự che chở và giúp đỡ.
Nguồn gốc của niềm tin tôn giáo được nhà triết học cổ điển Đức Lútvích Phơbách (1804 - 1872) bàn đến trong tác phẩm “Các bài giảng về bản chất tôn giáo”. Ông xem tôn giáo như là sự tha hoá các đặc tính của con người - con người dường như nhân đôi mình trong gương mặt của thượng đế. Theo Phơbách, các trạng thái tâm lý đã sinh ra tôn giáo, đã tạo nên niềm tin tôn giáo, khách thể tôn giáo (các lực lượng siêu nhiên) nằm trong con người. Đó là một khách thể nội tại. Khách thể ấy có một vị trí đặc biệt đối với những người theo tôn giáo. Các thần linh đối với họ là những thực thể ưu tú nhất, thực thể đầu tiên và tột cùng. Do con người có mối liên hệ đặc biệt với khách thể tôn giáo nên niềm tin tôn giáo cũng là niềm tin rất đặc biệt - một niềm tin mà con người không mấy khi rời bỏ được.
Khi lý giải về nguồn gốc, bản chất của niềm tin tôn giáo, các nhà tâm lý học đã có những cách tiếp cận và có những quan điểm khác nhau , thậm chí đối lập nhau về vấn đề này.
Theo cách tiếp cận từ góc độ sinh học có các đại biểu tiêu biểu như: Nhà tâm lý học Mỹ G.A.Coe cho rằng con người tồn tại bản năng tôn giáo như tồn tại bản năng tái tạo nòi giống; Một nhà tâm lý học người Mỹ khác là R.V.Berxoi đã giải thích các hiện tượng tôn giáo, đặc biệt là niềm tin tôn giáo mang tính di truyền đặc biệt, chúng có cơ sở sinh học nằm trong cấu trúc của vỏ não và mang tính vô thức. Các đại biểu của trường phái Phân tâm học đã thử nghiệm tìm hiểu nguồn gốc của niềm tin tôn giáo qua các bản năng sinh học, qua những kích thích của con người trong xung đột với các chuẩn mực xã hội (giải thích nguồn gốc tôn giáo bằng “mặc cảm Ơdip”), lý giải sự hình thành tôn giáo bằng một loại tình cảm mang tính chất tính dục và vô thức…
Như vậy, các nhà tâm lý học theo hướng sinh học đã giải thích niềm tin tôn giáo (cũng như các khía cạnh tâm lý của nó) như một hiện tượng mang tính bản năng và vô thức. Sự tồn tại của nó nhờ qui luật di truyền. Các nhà nghiên cứu theo hướng này đã hoàn toàn phủ nhận vai trò của các yếu tố xã hội đối với sự hình thành và phát triển của tôn giáo. Quan điểm sinh học nêu trên về nguồn gốc của tôn giáo nói chung và niềm tin tôn giáo nói riêng đã bị các nhà tâm lý học mác - xít và những người tiếp cận nghiên cứu tôn giáo theo khuynh hướng xã hội phản đối. Mặt khác, trên thực tế hiện nay, quan điểm này rất khó tìm được chỗ đứng trong hệ thống các quan điểm khoa học bàn về tôn giáo. Tuy nhiên, cần có sự đánh giá khách quan những thành tựu nghiên cứu về hệ thần kinh cấp cao của con người trong thế kỷ XIX và XX đã đóng vai trò to lớn đối với việc tìm hiểu và lý giải các đặc điểm tâm lý của những người theo tôn giáo, cũng như những khó khăn của họ trong việc từ bỏ tôn giáo (như các kết quả nghiên cứu của A.A. Uxtonski (1875 - 1942), đưa ra học thuyết về những đặc điểm cơ bản của nguồn gốc các kích thích ở bán cầu đại não, cho phép hiểu được nhiều đặc điểm của đời sống tâm lý các tín đồ; I.P.Páplốp, với khái niệm “động lực có tính khuân mẫu” có ý nghĩa to lớn trong việc giải thích một số khía cạnh của hành vi tôn giáo như hành vi có tính khuôn đúc của các tín đồ trong các nghi lễ tôn giáo…)
Hướng tiếp cận nghiên cứu niềm tin tôn giáo từ góc độ xã hội, trước hết phải kể đến các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin.
C.Mác (1818 - 1833) đã chỉ ra tính hư ảo của tôn giáo. Theo C.Mác, tôn giáo là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của xã hội không có tinh thần, là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức. Tôn giáo chỉ là mặt trời ảo tưởng, vận động xung quanh bản thân mình. Bởi vậy, niềm tin tôn giáo là niềm tin vào “những bông hoa tưởng tượng”. Ph.Ăngghen (1820 - 1895) cho rằng, tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế. Niềm tin tôn giáo chỉ là niềm tin vào lực lượng không tồn tại trên trần thế - sản phẩm của quá trình trừu tượng hóa lâu dài, hình ảnh trong quan niệm của con người. V.I.Lênin (1870 - 1924) có những nhận định tương đồng với C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc phân tích về tôn giáo và niềm tin tôn giáo. Theo Lênin, niềm tin tôn giáo là niềm tin vào thần thánh, ma quỉ, vào những phép mầu… của con người bất lực trước cuộc đấu tranh chống thiên nhiên. Đó là lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia của những người lao động nghèo khổ, bần cùng và bất lực trong cuộc đấu tranh chống giai cấp bóc lột.
Erix From (1900 - 1980), nhà tâm lý học Mỹ gốc Đức là một đại diện của phái Phân tâm học mới. Những quan điểm về tâm lý học tôn giáo nhân đạo của From dựa trên những quan điểm phân tâm của Freud. Ông nghiên cứu những khía cạnh tâm lý của tôn giáo từ những hiện tượng tâm thần, xem xét tâm thần như hình thức cá biệt của tôn giáo. Theo From, nguồn gốc của niềm tin tôn giáo và tôn giáo nói chung không chỉ do những cảm xúc sợ hãi, mà còn xuất phát từ những xung đột xuất hiện trong quá trình tồn tại của con người. Một mặt, con người là một phần của tự nhiên, mặt khác với trí tuệ của mình, con người muốn chinh phục tự nhiên. Con người không bao giờ thoả mãn với những gì đã có của bản thân, cũng như cái mà môi trường xung quanh đem lại. Con người mong muốn, tìm hiểu, khám phá và giải quyết những bí ẩn về sự tồn tại của mình. Nhưng con người lại thường gặp phải những trở ngại thực tại. Chính xung đột giữa trí tuệ của con người với khả năng thực tế để thoả mãn là cơ sở tồn tại của tôn giáo.
Trong hướng tiếp cận xã hội về niềm tin tôn giáo, có một hướng tiếp cận theo quan điểm lịch sử. Đó là cách tiếp cận theo tiến trình phát triển của loài người. Những người theo khuynh hướng này cho rằng, lịch sử phát triển loài người đã làm thay đổi nội dung tâm lý của tôn giáo. Hướng tiếp cận này đã lấy xã hội nguyên thuỷ làm điểm xuất phát để nghiên cứu. Theo họ, cần tìm hiểu tiền đề và nguồn gốc tâm lý tôn giáo của xã hội nguyên thuỷ để giải thích nguồn gốc tâm lý tôn giáo của con người.
Nhà dân tộc học người Anh B.Malinôpski (1884 - 1942) đã phân tích khá sâu sắc nguồn gốc tâm lý của ma thuật. Thông qua các nghi lễ, ma thuật đã cung cấp cho con người cách khắc phục những nguy hiểm xuất hiện trong cuộc sống thực tiễn theo cách hoang sơ của người tiền sử. Ma thuật giúp con người đạt được những mục đích của mình với niềm tin. Ma thuật giúp con người giữ cân bằng trạng thái tâm lý trong hoàn cảnh sợ hãi. Như vậy, ma thuật có chức năng quan trọng là tạo ra tinh thần lạc quan ở con người, giúp con người có niềm tin, nghị lực để hy vọng chiến thắng những khó khăn, sợ hãi trong cuộc sống. Song, cần nói thêm rằng niềm tin do ma thuật đem lại dựa trên sự hư ảo của con người.
Một cách tiếp cận khác trong xu hướng tiếp cận niềm tin tôn giáo từ góc độ xã hội là cách tiếp cận theo quan điểm thần học.
Nhà thần học Karl Barth (1886 - 1968) cho rằng, niềm tin phản ánh sự đối xử từ bi của thượng đế đối với con người. Theo ông, niềm tin của các tín đồ đạo Kitô bắt đầu từ thượng đế. Đó là niềm tin vào sự hùng hậu và sức mạnh vô biên của Thượng đế. Đồng thời, các tín đồ lại ý thức về sự nhỏ bé, yếu ớt của mình. Theo ông, niềm tin tôn giáo được cấu thành từ hai mặt tương phản: sức mạnh của lực lượng siêu nhiên và sự yếu ớt của con người trước lực lượng đó. Thực ra, hai mặt này trong niềm tin tôn giáo không đối lập nhau mà có sự gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Ý thức về sự nhỏ bé của mình, con người đi tìm kiếm sự che chở là cho ý thức đó càng sâu sắc thêm, niềm tin vào Thượng đế càng mãnh liệt hơn.
P.Tillich lại có cách giải thích khác về niềm tin tôn giáo. Theo ông, niềm tin tôn giáo là sự ham thích cao nhất của cá nhân, chiếm vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần, có thể làm thay đổi cấu trúc của vô thức và ý thức của con người. Trong niềm tin tôn giáo, con người thực hiện được giao tiếp giữa bản thân và Thượng đế, khắc phục được xung đột giữa chủ thể và khách thể.
Cách tiếp cận xã hội học về niềm tin tôn giáo là một hướng tiếp cận đáng chú ý. Max Weber (1864 - 1920) nhà tư tưởng lớn người Đức, chuyên nghiên cứu về xã hội học và tôn giáo cho rằng, đạo đức về niềm tin là một trong những biểu hiện của một thái độ, một cách ứng xử theo tôn giáo. Trong khi phân tích về tôn giáo, ông đã đặt nó trong mối liên hệ với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung. Ông muốn chứng minh rằng, các khái niệm tôn giáo trên thực tế là nhân tố quyết định đối với thái độ ứng xử về kinh tế và do vậy, nó là một nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi kinh tế trong các xã hội.
Từ sự phân tích trên cho thấy, niềm tin tôn giáo là một niềm tin đặc biệt. Tính đặc biệt này không phải do tôn giáo là một vấn đề xã hội vừa mang tính bộ phận, tính khu vực, vừa mang tính toàn cầu mà do khách thể tôn giáo qui định. Nguồn gốc của tôn giáo nói chung, của niềm tin tôn giáo nói riêng suy cho cùng vẫn do điều kiện xã hội lịch sử - xã hội quyết định. Đứng trên quan điểm của tâm lý học mác xít, chúng ta phủ nhận quan điểm cho rằng niềm tin tôn giáo có nguồn gốc từ các yếu tố sinh học. Qua nghiên cứu về niềm tin tôn giáo, có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của niềm tin tôn giáo như sau:
Thứ nhất, niềm tin tôn giáo là niềm tin hư ảo. Tính hư ảo này thể hiện ở chỗ những người theo tôn giáo hướng đến các lực lượng siêu nhiên, tìm kiếm sự che chở và giúp đỡ của các lực lượng này. Cùng với việc hướng đến các lực lượng thần thánh, họ còn tin vào và hướng tới một cuộc sống ở thế giới khác. Các lực lượng siêu nhiên (lực lượng thần thánh) là những lực lượng không tồn tại trong cuộc sống của chúng ta. Đó là lực lượng do con người tạo nên bằng nhận thức và tình cảm của mình. Lực lượng này có thể xuất phát từ một đối tượng có thực trong cuộc sống (một vật thể hay một con người nào đó, ví dụ: Bà Chúa Kho, Đức Thánh Trần, Chúa Giêsu…) hay những đối tượng hoàn toàn do con người tưởng tượng ra, hư cấu nên, chẳng hạn như Đức Chúa Trời… Các lực lượng siêu nhiên này tuy không tồn tại trong cuộc sống hiện tại của con người, nhưng với những người theo tôn giáo thì chúng có ảnh hưởng lớn (thậm chí quyết định) cuộc sống hiện tại và cuộc sống sau này của họ.
Niềm tin vào lực lượng siêu nhiên đã phát triển từ mức độ thấp đến mức độ cao cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Các hình thức tôn giáo sơ khai của những người nguyên thuỷ như ma thuật, Bái vật giáo, Tôtem giáo đã phản ánh niềm tin vào các đặc tính siêu nhiên của các vật thể vật chất (như một loài động vật, một loại cây nào đó). Trong quá trình phát triển của tôn giáo cùng với sự phát triển của xã hội, các lực lượng siêu nhiên ngày càng tách khỏi những yếu tố tự nhiên. Trong ý thức của con người lúc này các lực lượng siêu nhiên tồn tại dưới dạng như yếu tố tinh thần, như một hình thức cao của sự tồn tại chi phối thế giới vật chất và không đối lập với thế giới này. Như vậy, các lực lượng siêu nhiên đã biến đổi từ các vật thể vật chất thành các thực thể phi vật chất.
Theo quan điểm duy vật, thì những tư tưởng và biểu tượng về lực lượng siêu nhiên là sự phản ánh các lực lượng thực tại vào đầu óc con người. Hay nói cách khác, chính bản thân lực lượng siêu nhiên không tồn tại khách quan. Chúng chỉ là những khách thể hư ảo do con người tạo nên. Nhưng đối với các tín đồ thì các khách thể này là có thật và họ tin vào sự tồn tại của nó. Các khách thể mà những người theo tôn giáo hướng tới, tin vào cái gì đó rất thần bí, tồn tại trong cảm xúc, mà con người hiểu được, chúng tồn tại trong ý thức cá nhân và ý thức xã hội, trong quan hệ nhận thức của con người với thực tại.
Những người theo tôn giáo không chỉ tin vào sự tồn tại của các lực lượng siêu nhiên, mà họ còn tin vào một thế giới khác, ở đó con người sẽ tiếp tục sống cuộc sống thứ hai của mình sau khi kết thúc cuộc đời ở trần thế. Thế giới đó theo cách gọi của Kitô giáo, Hồi giáo… là “Thiên đường”, “Địa ngục”, theo phật giáo là “cõi Niết bàn”… Vậy Thiên đường là gì? Địa ngục là gì? Tại sao người ta lại mơ ước đến Thiên đường và sợ hãi phải đày xuống Địa ngục?
Thiên đường theo đạo Thiên Chúa là một địa chỉ mà ai cũng ước mơ được tới. Nơi đó mỗi cành cây đều phủ đầy hoa thơm, quả ngọt, nơi đó có những thảm cỏ mượt mà, mãi mãi xanh tươi, những dòng sông trong xanh, những dòng suối đầy sữa tươi, rượu vang với hương vị tuyệt vời. Nơi đó luôn luôn có nắng ấm và ở đó con người không cần phải e thẹn, ghen tuông và sợ hãi, mọi vật đều không có tuổi, không biết đến cái chết và bệnh tật. Chính tại nơi đó, những con người đầu tiên - Ađam và Êva đã được Thượng đế tạo ra, rồi đuổi họ đi vì họ phạm tội ăn trái cấm. Thiên đường, nơi đã sinh ra con người và chính là nơi con người ước mơ được quay về. Như vậy, Thiên đường là thế giới cực lạc, ở đó mọi nhu cầu, mọi mong ước của con người đều được thoả mãn. Đặc biệt, con người được trường tồn vĩnh viễn, không phải lo lắng đến đau khổ, bệnh tật và những đe doạ khác.
Trái ngược với Thiên đường là Địa ngục. Các tín đồ Hồi giáo cho rằng Địa ngục là nơi ghê rợn, lửa cháy đùng đùng, khói cuộn ngút ngàn. Những người bị đày xuống nơi đây cổ phải đeo gông xiềng, mình lằn roi vọt, chịu đủ mọi cực hình tra tấn, chẳng bao giờ ngóc đầu lên được. Đạo Thiên Chúa coi Địa ngục là nơi ở sau khi chết của những người sống không tin vào đạo và phạm nhiều tội ác. Đạo Phật coi địa ngục là cõi khổ, là nơi đày đoạ của những chúng sinh khi sống đã phạm nhiều tội ác. Có nhiều loại Địa ngục, tuỳ theo mức độ phạm tội mà con người bị đày xuống loại Địa ngục tương ứng, theo luật nhân quả nghiệp báo.
Điều đặc biệt là trong Kinh thánh không nói đến kết cục của Thiên đường (vườn Eđen). Cho nên các tín đồ tin rằng Thiên đường vẫn còn tồn tại ở đâu đó. Lịch sử đã từng chứng kiến nhiều cuộc hành hương đầy mê muội và thảm khốc về vườn Eđen (Thiên đường). Tất cả các cuộc hành hương này đều thất bại. Đó mãi mãi chỉ là một giấc mơ, một ảo ảnh mà thôi. Theo thống kê ở 5 nước Cộng đồng Châu Âu, có tới gần 50% tín đồ theo đạo Thiên Chúa giáo, 43% tín đồ theo đạo Tin Lành và 8% những người không theo đạo muốn trở lại Thiên đường. Khi nói đến niềm tin tôn giáo như một niềm tin hư ảo (niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên; niềm tin vào một thế giới mãi mãi chỉ là ước vọng của con người) chúng ta cần phân tích sâu hơn khía cạnh tâm lý của vấn đề này.
Ở đây cái khát khao dựa vào lực lượng thần thánh nhằm tìm kiếm sự che chở và giúp đỡ, các ước muốn về một cuộc sống cực lạc và vĩnh hằng là một nhu cầu của con người. Nhưng đây lại là một nhu cầu không bao giờ có thể biến thành hiện thực. Hay nói cách khác, đây là nhu cầu hư ảo, một khát vọng to lớn mà không bao giờ đạt tới được. Theo qui luật của tâm lý học, những nhu cầu nào mà chưa được thoả mãn thì nó còn là động lực thúc đẩy hoạt động của con người (từ nhận thức tới tình cảm và hành vi). Do nhu cầu tôn giáo là nhu cầu hư ảo, nên nó mãi mãi là động lực thôi thúc con người, nó mãi mãi trở thành khao khát, ước vọng và sự vươn tới của con người.
Chính điều này làm cho tôn giáo chưa thể mất đi và nó còn tồn tại lâu dài trong xã hội loài người. Đây chính là biện pháp tâm lý hết sức khôn ngoan và tinh vi mà các tôn giáo đã tìm ra được để thâm nhập vào đời sống của con người, tác động và kích thích con người để duy trì và mở rộng sự tồn tại của chúng và cũng chính là một khía cạnh tâm lý rất quan trọng mà chúng ta cần chú ý khi nghiên cứu về tôn giáo. Nếu chúng ta không quan tâm tới khía cạnh tâm lý này thì không thể lý giải được bản chất của các hiện tượng tôn giáo cũng như các tôn giáo nói chung.
Thứ hai, niềm tin tôn giáo là niềm tin bền vững ở các tín đồ.
Nói đến niềm tin là nói đến một định hướng giá trị vững chắc trong nhận thức và hành động của con người. Nhưng niềm tin tôn giáo lại là một niềm tin hết sức bền vững, một sự bền vững đặc biệt so với các niềm tin khác ở các tín đồ. Sự bền vững của niềm tin tôn giáo thể hiện ở chỗ, những người theo tôn giáo tin vào lực lượng siêu nhiên, vào thế giới hư ảo một cách mê muội và mù quáng. Vì niềm tin tôn giáo của mình, họ có thể sẵn sàng hy sinh tất cả (kể cả tính mạng của mình). Tính bền vững của niềm tin tôn giáo còn thể hiện ở chỗ cá nhân tin tưởng vào niềm tin đó đến cùng và đó là niềm tin họ sẽ theo đuổi trong suốt cuộc đời của mình - một niềm tin dường như không thể thay đổi. Đây cũng là một yếu tố cơ bản để giải thích tinh thần “tử vì đạo” tới mức mê muội của các tín đồ, là lý do để giải thích sức sống của tôn giáo cũng như sự bám rễ vững chắc của hiện tượng này trong đời sống xã hội. Chẳng hạn như ở nước ta, năm 1954, thế lực thù địch cách mạng tuyên truyền “Chúa Kitô đã vào Nam”, “Đức Mẹ rời bỏ Bắc Việt”… làm cho 55 vạn tín đồ đạo Thiên Chúa giáo ở miền Bắc đã bỏ nhà cửa, ruộng vườn để di cư vào Nam. Hay các vị thánh nhân của Garnlai (bang Uttar Pradesh, vùng Himalya, Ấn Độ) ăn chay, nhịn ăn kéo dài, đày ải thể xác, từ biệt mọi ham muốn của con người, mọi nhu cầu của con người, tự nguyện sống nghèo khổ, biệt lập trong các hang động hoặc sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để hy vọng được đến gần các vị thần Ấn Độ giáo…; các tín đồ vì tin vào những lời tiên đoán vô căn cứ về “ngày tận thế” đã dẫn đến những vụ tự sát tập thể, gây nên cái chết thương tâm cho hàng trăm tín đồ (điển hình như vụ tự sát tập thể của gần 900 tín đồ của giáo phái “Dân đền” ở Guyana năm 1978…).
Qua các dẫn chứng trên cho thấy, một niềm tin tôn giáo bền vững sẽ đưa các tín đồ đến những hành động thiếu minh mẫn một cách mù quáng, mà họ vẫn tin rằng đó là những hành động cao cả theo chỉ giáo của thánh thần. Tín đồ làm điều đó với sự mãn nguyện cao, không một chút ân hận. Sự sâu sắc của niềm tin tôn giáo không chỉ làm cho cá nhân tín đồ đi đến những hành động có kết cục bi thảm, mà còn có những hành vi gần như mang tính vô thức. Họ sẵn sàng tin và hành động theo những tin đồn không hề có tính lôgíc và khoa học. Những hành động của họ không theo các qui trình hoạt động trí tuệ thông thường. Ở đây, không có sự phân tích, đánh giá các yếu tố của sự kiện để tìm ra những mặt hợp lý và không hợp lý của sự kiện để đi đến một quyết định đúng đắn.
Một số nhà tâm lý học đã cố gắng lý giải về sự bền vững của niềm tin tôn giáo. Theo L.Phectingơ, có 3 yếu tố tạo nên sự bền vững này: Nhận thức về tôn giáo trong cuộc sống cá nhân và trong hệ thống định hướng giá trị; Hoàn cảnh sống mà các tín đồ tiếp cận, thông qua các sinh hoạt tôn giáo; Áp lực của cộng đồng tôn giáo đến các tín đồ. Hai nhà tâm lý học người Mỹ là D.Betston và L.Ventis cho rằng, sự bền vững của niềm tin tôn giáo là do khả năng giữ gìn một số đặc điểm tâm lý của tín đồ, bất chấp các yếu tố thực tế và sự mâu thuẫn giữa chúng.
Ngoài các yếu tố góp phần tạo nên sự bền vững của niềm tin tôn giáo, còn một yếu tố rất quan trọng, tồn tại trong ý thức của tín đồ là niềm tin về sự cứu thế con người của các lực lượng thần thánh. Ở đây, cần quay trở lại một vấn đề đã được nêu ở trên là niềm tin về một sự cứu thế được hình thành từ hai yếu tố có vẻ như tương phản, nhưng rất thống nhất là sự ý thức về khả năng hùng mạnh của thần thánh và sự yếu đuối, bé bỏng của bản thân con người. Là một hiện tượng tâm lý- xã hội, niềm tin tôn giáo có tác dụng gắn kết các cộng đồng tôn giáo
Như vậy, xét về bản chất, niềm tin tôn giáo không phản ánh đúng nhận thức của con người và không phù hợp quy luật khách quan. Bởi lẽ, nó chỉ hướng tới khách thể mà chúng ta không biết được, không tiếp cận được, còn nhận thức của con người có thể hiểu được các hiện tượng, sự vật của thực tại. Có thể nói, niềm tin tôn giáo là niềm tin không dựa trên những luận cứ lôgíc, không có căn cứ khoa học. Nhưng đối với những người theo tôn giáo nó lại là lẽ sống, là cứu cánh của cuộc đời. Người ta có thể chấp nhận mọi gian khổ và khó khăn, thậm chí đổi cả tính mạng của mình để phụng sự cho niềm tin ấy.
Từ những phân tích ở trên về các đặc điểm của niềm tin tôn giáo, chúng ta có thể rút ra nhận xét: niềm tin tôn giáo là một niềm tin rất bền vững, một niềm tin hướng đến các lực lượng và thế giới không tồn tại. Theo qui luật tâm lý học, chính tính hư ảo đã góp phần là cho niềm tin tôn giáo tồn tại và sâu sắc thêm. Mặt khác, một niềm tin bền vững đã làm cho một số tín đồ có những hành vi thiếu minh mẫn và cực đoan. Cũng chính do các đặc điểm này mà tôn giáo đã bị không ít người lợi dụng vào các hoạt động tín ngưỡng tiêu cực, không phù hợp với lối sống văn hoá như mê tín, dị đoan, buôn thần, bán thánh hay lợi dụng vào các mục đích chính trị làm ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Tuy nhiên nó không thể xóa bỏ một cách nhanh chóng, chủ quan, mà còn là cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, khó khăn phức tạp, Muốn vậy, phải giác ngộ quần chúng nhân dân để họ từ bỏ niềm tin hư ảo, mù quáng.
Nắm được đặc điểm cơ bản của niềm tin tôn giáo sẽ giúp chúng ta đề ra được những chủ trương, biện pháp phù hợp và có hiệu quả trong tuyên truyền, giáo dục những người theo tôn giáo, để họ có thể phát huy và cống hiến tiềm năng của mình cho công cuộc đổi mới đất nước, nhằm xây dựng một xã hội ấm no, hạnh phúc, công bằng và văn minh.
Hiện nay, cả nước ta có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Hoà hảo. Số tín đồ của 6 tôn giáo lớn chiếm tỷ lệ 19,4% dân số, với hơn 18 triệu người. Tín đồ các tôn giáo đại bộ phận là nông dân và nhân dân lao động. Trong những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo được cải thiện, cơ sở thờ tự được tu bổ, xây mới khang trang, đẹp đẽ. Các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi. Do những thành tựu của đất nước, do đời sống tín ngưỡng, tôn giáo được cải thiện, đồng bào tôn giáo tăng thêm niềm tin vào Đảng và Nhà nước. Đồng bào ngày càng nhận rõ lợi ích của bản thân và lợi ích của tôn giáo mình gắn bó mật thiết với lợi ích của đất nước. Ý thức dân tộc và trách nhiệm của đồng bào được nâng lên; đồng thời ý thức và tình cảm tôn giáo ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, tình hình tôn giáo hiện nay còn có những biểu hiện phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số người chưa tuân thủ pháp luật còn tổ chức truyền đạo trái phép; còn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Nhiều đồng bào tôn giáo chưa thật sự thông hiểu đầy đủ luật pháp và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, khi tình cảm tôn giáo bị kích động, đồng bào dễ bị lôi cuốn vào những hoạt động trái pháp luật ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số (khu vực Tây Nguyên, Tây bắc), một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị. Điển hình là hai vụ bạo loạn chính trị diễn ra ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004 vừa qua đã chứng minh điều đó.
Trên cơ sở kiến thức tâm lý học về niềm tin tôn giáo và thực tiễn công tác tôn giáo ở nước ta trong thời gian vừa qua cho thấy, để thực hiện tốt phương hướng, các nhiệm vụ công tác tôn giáo cần thực hiện tốt hệ thống các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo là một vấn đề xã hội nhạy cảm và phức tạp, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, niềm tin tôn giáo của các tín đồ là một niềm tin vững chắc, không dễ từ bỏ. Vì vậy, để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo không được nóng vội, áp đặt chủ quan mà trước hết cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo. Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo, thông qua đó tăng cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau trong nhân dân ta; đồng thời tạo ra cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo, những hoạt động mê tín, dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm hại tới lợi ích Tổ quốc, dân tộc và nhân dân.
Hai là, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
Đại bộ phận tín đồ tôn giáo ở nước ta là quần chúng nhân dân lao động. Để giúp các tín đồ hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo, là cơ sở cho đồng bào sống “tốt đời, đẹp đạo”, là một tín đồ ngoan đạo, đồng thời cũng là một công dân tốt đòi hỏi các cấp, các ngành cần thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo. Tăng cường và đổi mới công tác tuyen truyền, vận động quần chúng, nhất là đối với đồng bào công giáo; vùng dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, biên giới ...Phát huy vai trò và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo. Đặc biệt, cần quan tâm củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, nơi có đông đồng bào tôn giáo sinh sống; khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, trách nhiệm chính trị của đồng bào công giáo. Thực hiện tốt các hoạt động của tổ công tác của các địa phương, kết hợp với quân đội, công an, đoàn thanh niên...trong tuyên truyền, vận động nhân dân.
Ba là, quan tâm đúng mức, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào theo tôn giáo và đồng bào vùng dân tộc ít người.
Xuất phát từ nguyên tắc quyết định luận duy vật các hiện tượng tâm lý,  để tạo cơ sở vững chắc cho đồng bào theo tôn giáo; đồng bào dân tộc ít người tin tưởng vào đường lối chính sách của Đảng, yên tâm cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần tăng cường đầu tư và thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình, mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ tôn giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn. Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Khuyến khích các tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế, văn hoá, giáo dục… của Nhà nước phù hợp với chức năng, nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và qui định của pháp luật. Từng bước thống nhất chủ trương, biện pháp xử lý vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo, không để xảy ra tranh chấp gây bất ổn chính trị tại các địa bàn, nhất là những địa bàn trọng điểm, nhạy cảm.
Bốn là, Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tốn giáo hiện nay còn nhiều bất cập cả về số lượng, trình độ mọi mặt, nhất là hiểu biết về tín ngưỡng, tôn giáo vfeef phong tục, tập quán của đồng bào. Đây là trở ngại rất lớn đối với công tác thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, trước hết cần củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xây dựng và thực hiện tốt công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bảo đảm chế độ, chính sách đối với đội ngũ làm công tác tôn giáo. Quan tâm thoả đáng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác tôn giáo các cấp. Cán bộ làm công tác tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải được bồi dưỡng, huấn luyện để hiểu biết phong tục tập quán, tiếng nói của dân tộc nơi mình công tác.
Năm là,  Một số vấn đề rút ra đối với Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quần chúng nhân dân. Các địa bàn chiến lược thường là nơi có đông đồng bào tôn giáo như các đô thị lớn, vùng ven biển, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc…, cơ sở chính trị một số vùng tôn giáo còn yếu, kinh tế - xã hội còn chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào còn nhiều khó khăn, dân trí thấp, kẻ thù luôn tìm cách lợi dụng vấn đề tôn giáo gây mất ổn định. Công tác tôn giáo được xác định rõ là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị nói chung, của quân đội ta nói riêng. Do đó, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần nhận thức sâu sắc vấn đề này. Trên cơ sở nắm chắc kiến thức tâm lý học về vấn đề tôn giáo; đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo, đề xuất nội dung, biện pháp tiến hành công tác vận động tôn giáo của đơn vị trong tình mới. Tăng cường mối đoàn kết quân - dân vùng đồng bào tôn giáo. Giữ vững và phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tuyên truyền vận động để đồng bào và chức sắc tôn giáo ngày càng tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; tiến hành hoạt động tôn giáo phù hợp với luật pháp, có đường hướng hành đạo gắn bó với chế độ, với dân tộc; đồng thời nhận rõ và tự giác đấu tranh với mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định về mọi mặt, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương tôn giáo. Đây là nội dung trọng tâm của công tác dân vận vùng tôn giáo nhằm đạt mục tiêu mà chỉ thị 58/TTg của Thủ tướng chính phủ đã xác định là: ổn định về chính trị, phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, quốc phòng an ninh vững chắc, có nếp sống văn minh, lành mạnh, góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn biến hoà bình” và sẵn sàng đối phó thắng lợi các tình huống khác. Bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ là người tin theo các tôn giáo khi tại ngũ để khi xuất ngũ là lực lượng nòng cốt cho các địa phương trong các tôn giáo./.


Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

HOẠT ĐỘNG TÂM LÝ CHIẾN CỦA QUÂN ĐỘI MỸ VÀ ĐỒNG MINH TRONG TÁC CHIẾN LIÊN QUÂN

Đảng ta đã xác định rõ và khẳng định trong văn kiện Nghị quyết TƯ 8 (khoá IX), đối tượng tác chiến chủ yếu và cơ bản của Quân đội ta trong tương lai vẫn là Quân đội Mỹ và đồng minh của chúng. Do đó, việc nghiên cứu toàn diện cả về đường lối, chiến lược quân sự; tổ chức, biên chế; vũ kí, trang bị kỹ thuật; chi phí và đầu tư quân sự; các hình thức tác chiến chủ yếu; âm mưu, thủ đoạn; chiến tranh tâm lý và các hoạt động tâm lý chiến..., là nhiệm vụ quan trọng, nhằm chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống. Việc nghiên cứu một cách đầy đủ, khách quan, trung thực...về các hoạt động tâm lý chiến (HĐTLC) của Quân đội Mỹ và đồng minh, sẽ góp phần làm rõ những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của nó đến trạng thái tâm lý, tư tưởng của quân nhân và nhân dân ta trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; trên cơ sở đó đề xuất xác đáng, khoa học về công tác chuẩn bị mọi mặt, nhất là chuẩn bị con người (quân nhân), đủ sức vô hiệu hoá mọi HĐTLC của Mỹ và đồng minh.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRẺ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

Đối với giáo dục đại học nói chung, Trường Đại học Chính trị nói riêng, nghiên cứu khoa học (NCKH) là một nhiệm vụ trọng tâm, yêu cầu khách quan và là một trong những động lực quan trọng, chủ yếu quyết định chất lượng, hiệu quả giáo dục – đào tạo. Thông qua NCKH, giúp giảng viên mở rộng, tìm hiểu sâu kiến thức chuyên môn, cập nhật những kiến thức mới, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn để bổ sung vào bài giảng; tự khẳng định bản thân và thấy được những hạn chế, thiếu sót trong tri thức của mình để kịp thời bổ sung. Theo đó, năng lực tư duy lý luận, tư duy khoa học của giảng viên được phát triển; chất lượng, hiệu quả dạy học được nâng cao, tạo ra hiệu suất, giá trị khoa học của mỗi bài giảng và mỗi công trình nghiên cứu.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững…”[1]. Quán triệt quan điểm của Đảng và nhận thức sâu sắc vai trò của công tác nghiên cứu khoa học, Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ Trường Sĩ quan Chính trị xác định: “…Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, chỉ huy các cấp, đảm bảo cho nhiệm vụ khoa học đi đúng hướng và từng bước phát triển, trở thành nhu cầu không thể thiếu của mỗi cán bộ, giảng viên, học viên”[2]. Đây là định hướng lớn, đường hướng đúng bảo đảm cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ NCKH của Nhà trường cũng như bồi dưỡng nâng cao năng lực NCKH của giảng viên trẻ (GVT) trong suốt những năm qua. Theo đó, những năm qua Nhà trường đã có sự quan tâm đến hoạt động NCKH và việc bồi dưỡng năng lực NCKH cho GVT. Tuy nhiên, trình độ, năng lực nghiên cứu của GVT nhìn chung còn nhiều hạn chế, số lượng tham gia nghiên cứu các đề tài và các bài báo khoa học còn ít, chất lượng chưa cao, chủ yếu vẫn dừng lại ở đề tài cá nhân nhưng giá trị khoa học không cao, vẫn mang tính hình thức, đối phó. GVT chưa có bản lĩnh, thiếu chủ động và mạnh dạn trong đề xuất các vấn đề nghiên cứu; việc triển khai nghiên cứu đề tài cũng như viết báo khoa học còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Điều này trước hết do nhận thức của nhiều GVT về nhiệm vụ NCKH chưa thật đúng đắn nên thiếu tích cực, tự giác, ngại tìm tòi, khám phá. Phần đông GVT là cử nhân, rất ít người có trình độ thạc sĩ (trừ khoa khoa học cơ bản) và chưa có tiến sĩ, lại mới vào nghề nên kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn quân sự, sư phạm chưa nhiều; đặc biệt là thiếu và yếu về tri thức, kinh nghiệm và các kỹ năng NCKH như: phát hiện vấn đề, xây dựng đề cương, triển khai ý tưởng và trình bày sản phẩm nghiên cứu. Về phía các khoa, việc nghiệm thu, đánh giá các báo cáo khoa học còn xuê xoa, nương nhẹ; chưa cụ thể hóa việc gắn NCKH với đánh giá chất lượng cán bộ, đảng viên hàng năm đã tạo nên tâm lý xem nhẹ, thái độ không nghiêm túc trong NCKH ở một số GVT. Bên cạnh đó, môi trường khoa học, cơ sở vật chất dành cho nghiên cứu lại chưa thuận lợi; cơ chế quản lý, chế độ đãi ngộ về KHCN cũng còn nhiều bất cập, nên chưa khuyến khích GVT nghiên cứu khoa học. GVT ít có điều kiện tham gia đề tài, việc giao lưu giữa giảng viên các khoa trong Trường cũng như với các trường khác trong và ngoài quân đội rất ít, dường như không có, nên thông tin về các đề tài, các vấn đề nghiên cứu không được cập nhật, tính kế thừa và hợp tác trong nghiên cứu cũng như việc khai thác, sử dụng kết quả nghiên cứu của các đề tài khác còn ít, không học hỏi và đúc rút được kinh nghiệm. Sự tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, những khó khăn nảy sinh trong cuộc sống làm ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm, lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm trong giảng dạy, ý thức tự học, tự nghiên cứu, và sự vươn lên trong khoa học của mỗi GVT. Do vậy, để nâng cao chất lượng NCKH của GVT ở Trường Đại học Chính trị hiện nay cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản dưới đây:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các lực lượng đối với nhiệm vụ NCKH; coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động NCKH và bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng NCKH của GVT vì đây là đội ngũ kế cận quan trọng, động lực chủ yếu của sự phát triển GD – ĐT của Nhà trường. Trước hết, cần tạo hành lang pháp lý bằng các quy định cụ thể hóa trong các văn bản, quy chế, điều lệ nhà trường; xây dựng quy định chế độ làm việc của giảng viên, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giảng viên; bổ sung các quy định NCKH của GVT cho phù hợp với thực tiễn Nhà trường và khả năng thực tế của GVT; xây dựng chế độ, quy chế hoạt động NCKH có tính đến khả năng cũng như chất lượng, hiệu quả thực tế nghiên cứu, bảo đảm để GVT có thể độc lập nghiên cứu hoặc tham gia, hợp tác nghiên cứu những đề tài cấp cao; bảo đảm nguồn kinh phí cho GVT nghiên cứu; khắc phục tình trạng quá tải trong giảng dạy gây ra áp lực khiến giảng viên không có thời gian và khó tập trung nghiên cứu. Nhà trường một mặt cần khơi dậy ý thức tự giác, trách nhiệm chính trị của các khoa và GVT; đồng thời, cần có những qui định có tính cưỡng chế, bắt buộc các khoa và GVT đối với nhiệm vụ NCKH. Từng bước hoàn thiện cơ chế đánh giá chất lượng hoàn thành nhiệm vụ giảng viên, đảng viên gắn với ý thức trách nhiệm; năng lực nghiên cứu khoa học; số lượng, chất lượng công trình nghiên cứu; hiệu quả đóng góp cho khoa học và chất lượng GD – ĐT của Nhà trường. Đáp ứng những lợi ích vật chất và tinh thần chính đáng của đội ngũ giảng viên, cải tiến chế độ thù lao và chế độ nhuận bút nhằm kích thích GVT tích cực NCKH. Nhà trường và các khoa cần có cơ chế, các chính sách cụ thể để động viên, khuyến khích, hỗ trợ đi học nâng cao trình độ, tự học và NCKH; mạnh dạn giao nhiệm vụ, giao đề tài và tạo điều kiện thuận lợi để GVT được tham dự vào các công trình nghiên cứu ở cấp cao hơn. Tổ chức đánh giá chặt chẽ, đúng chất lượng để khen thưởng xứng đáng, kịp thời những GVT có tinh thần trách nhiệm, số và chất lượng các công trình nghiên cứu trong học kỳ, năm học. Tập huấn, bồi dưỡng các phương pháp, phương tiện giảng dạy và nghiên cứu hiện đại để GVT có cơ hội tiếp cận, học hỏi và vận dụng vào nghiên cứu. Từng bước cải cách chế độ phân bổ kinh phí cho NCKH ở cấp khoa và nghiên cứu cá nhân, nhằm nâng cao chất lượng các đề tài, công trình nghiên cứu và năng lực nghiên cứu của GVT; có cơ chế mở rộng hợp tác NCKH với các nhà trường, cơ sở đào tạo, các viện nghiên cứu, tạo điều kiện cho GVT được giao lưu, học hỏi và trực tiếp tham gia nghiên cứu các đề tài thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Xây dựng kế hoạch tổng thể, cử GVT đi đào tạo ở trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; đồng thời, lựa chọn những GVT thực sự có khả năng phát triển, khả năng nghiên cứu tốt để đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu hoặc tập huấn, bồi dưỡng tại chỗ nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ NCKH trước mắt và lâu dài của Nhà trường và các khoa chuyên ngành. Tiến tới hình thành nên quỹ khen thưởng NCKH, quỹ tài năng trẻ hỗ trợ, phục vụ cho nghiên cứu của GVT. Định kỳ hoặc sau mỗi đợt nên tổ chức tọa đàm, giới thiệu, quảng bá các sản phẩm nghiên cứu của GVT có chất lượng. Phát hiện, khuyến khích GVT có tài năng NCKH thực sự tham gia nghiên cứu các đề tài trong và ngoài trường, giúp đỡ kinh phí, tạo cơ hội cho GVT đi học tập, nghiên cứu ở những trường đại học lớn, những cơ sở nghiên cứu uy tín ở trong và ngoài quân đội (nếu có).
 Hai là, Đê cao trách nhiệm, vai trò của các khoa đối với nhiệm vụ bồi dưỡng nâng cao năng lực và chất lượng NCKH của GVT; với việc tổ chức các hội nghị khoa học, các đề tài nghiên cứu theo hướng bảo đảm tính nghiêm túc, có chất lượng cao, giữ vững định hướng chính trị, có tính khoa học và ý nghĩa thực tiễn cao. Nghiên cứu khoa học là hoạt động đặc thù, đó là quá trình tìm tòi, khám phá, phát hiện cái mới với quy luật riêng, do vậy nếu không nắm bắt được bản chất, quy trình, thao tác và không có các kỹ năng tương ứng thì khó hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu. Do vậy, các khoa chuyên ngành cần coi trọng bồi dưỡng kiến thức, cơ sở lý luận, phương pháp NCKH; rèn luyện năng lực tư duy khoa học và các kỹ năng cơ bản cho giảng viên trẻ. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan, các chuyên gia đầu ngành tiến hành tập huấn về quy trình, quy cách, cách thức, phương pháp, kỹ năng tiến hành nghiên cứu, cách triển khai và trình bày sản phẩm nghiên cứu đối với từng loại hình cụ thể như: đề tài khoa học; giáo trình, giáo khoa, tài liệu dạy học khác; bài báo khoa học; thông tin khoa học; sinh hoạt khoa học... Thực hiện tốt việc phân công người hướng dẫn, bồi dưỡng đối với GVT về NCKH và coi đây là quy định bắt buộc đối với giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, giảng viên chính, giảng viên cao cấp trong khoa, Nhà trường. Các Chủ nhiệm khoa, Chủ nhiệm Bộ môn và những giảng viên có học hàm, học vị phải thực sự là những tấm gương mẫu mực về nghiên cứu khoa học, có uy tín khoa học cao được đồng nghiệp tin yêu; có bản lĩnh khoa học vững vàng, có khả năng xây dựng kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng, hướng dẫn, giúp đỡ GVT trong suốt quá trình nghiên cứu. Đẩy mạnh phong trào thi đua NCKH gắn với phong trào dạy tốt và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện một cách thiết thực, hiệu quả nhằm tạo một không gian khoa học; trân trọng và tôn vinh các GVT có sản phẩm khoa học mang tính sáng tạo, ứng dụng cao. Qua đó khơi dậy và phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của GVT. Hoạt động NCKH cần được gắn sát với lợi ích cá nhân, biểu dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân có thành tích trong nghiên cứu; phát hiện và khuyến khích GVT có năng lực NCKH tham gia các đề tài các cấp.
Ba là, đa dạng hoá và phát huy tính hiệu quả của các hình thức nghiên cứu như: nghiên cứu cá nhân; nghiên cứu đề tài các cấp; tọa đàm, sinh hoạt học thuật, sinh hoạt chuyên môn; thông tin khoa học; hội thảo khoa học các cấp (khoa; liên khoa; Nhà trường …); hợp tác nghiên cứu; giao lưu, học hỏi kinh nghiệm; viết báo khoa học … nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để GVT có cơ hội tham gia nghiên cứu và trực tiếp rèn luyện năng lực viết, trình bày, phân tích, tổng hợp; rèn luyện bản lĩnh khoa học, sự tự tin và có điều kiện bày tỏ quan điểm, chính kiến, tranh luận, trao đổi, cọ sát, học hỏi kinh nghiệm của thế hệ đàn anh và đồng nghiệp; kích thích khả năng tư duy độc lập, sáng tạo trong lựa chọn và giải quyết những vấn đề khoa học đặt ra. Đặc biệt, tích cực tổ chức sinh hoạt học thuật ở bộ môn và khoa nhằm phát hiện các vấn đề cần nghiên cứu. Tổ chức có hiệu quả các đợt hội thảo khoa học cấp Nhà trường, hội thảo liên khoa và hội thảo của các khoa chuyên ngành với học viên đào tạo giáo viên. Từng bước hình thành các câu lạc bộ nghiên cứu khoa học theo khối ngành, chuyên ngành, liên ngành khoa học và hoạt động theo hướng mở để nhằm huy động và khuyến khích mọi giảng viên trẻ tích cực, say mê nghiên cứu khoa học. Tạo mọi điều kiện, nâng cao trách nhiệm hướng dẫn cho các thành viên câu lạc bộ tham gia thực hiện những đề tài nghiên cứu khoa học, tổ chức các hình thức sinh hoạt khoa học theo chuyên đề; tổ chức các buổi trao đổi, thảo luận, thông tin, hội thảo những vấn đề nghiên cứu mới do các nhà khoa học có uy tín là thành viên câu lạc bộ chủ trì tổ chức, qua đó nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của các thành viên. Tổ chức viết sáng kiến kinh nghiệm, thu hoạch chuyên đề,…Mở rộng giao lưu khoa học giữa các giảng viên trong trường và giữa Nhà trường với các nhà trường, cơ sở đào tạo khác bằng nhiều hình thức khác nhau: hội thảo khoa học, phối hợp tham gia các đề tài nghiên cứu,... để các giảng viên có điều kiện trao đổi ý tưởng khoa học, học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu, cùng nhau đề ra các kiến nghị khoa học. Nâng cao năng lực nghiên cứu, quản lý khoa học của trưởng các khoa, bộ môn. Bồi dưỡng bổ sung kiến thức về khoa học và các mặt hoạt động này, phát huy được tiềm năng trí tuệ của đội ngũ giảng viên có trình độ cao, sử dụng giảng viên trẻ có triển vọng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu. Tính cực hóa và khuyến khích các hoạt động tự NCKH; khơi dậy và phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học của mỗi GVT. Đổi mới công tác đánh giá giảng viên hàng năm trên cơ sở năng lực, chất lượng và nghiên cứu khoa học của họ thông qua những sản phẩm trí tuệ của họ sáng tạo ra bao gồm: các công trình nghiên cứu, tài liệu, giáo khoa, giáo trình, bài giảng, bài báo, tham luận khoa học....





[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐH toàn quốc lần thứ XI, tr 132
[2] Đảng Bộ TSQCT, văn kiện Đại hội lần thứ XII, tr 33
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÂM LÝ HỌC QUÂN SỰ TRONG CÁC TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

         Đặt vấn đề: tâm lý học nói chung, tâm lý học quân sự nói riêng là môn khoa học vừa mang tính lý thuyết; đồng thời, lại vừa mang tính ứng dụng – thực hành (thực tiễn) rất cao. Điều này phản ánh lôgic tính tất yếu khách quan về nguồn gốc, bản chất, cơ chế hình thành và phát triển tâm lý – ý thức người theo quan điểm Mác xít. Mặt khác, hoạt động giảng dạy các môn khoa học nói chung, giảng dạy tâm lý học quân sự nói riêng góp phần trực tiếp vào nhiệm vụ chuẩn bị con người (người sĩ quan cách mạng) mang tính đặc thù với yêu cầu rất cao nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn hoạt động quân sự - loại hoạt động đặc biệt. Chính vì thế, quá trình nghiên cứu cũng như giảng dạy cần phải tuân thủ đúng lôgic của mối quan hệ biện chứng lý luận – thực tiễn; trong đó thực tiễn là tiền đề, cơ sở - nơi khởi nguồn đồng thời là nơi biểu hiện và kiểm chứng của mọi hiện tượng tâm lý - ý thức người (quân nhân). Tuy nhiên, trong thực tế quá trình giảng dạy tâm lý học quân sự trong các nhà trường quân đội hiện nay cũng đã cho thấy còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, chưa theo kịp tình hình và chưa đáp ứng được sự vận động, phát triển của thực tiễn; điều đó được biểu hiện trên một số khía cạnh dưới đây:
1- Nhìn chung học viên rất sợ học môn tâm lý vì cho rằng khó, nhiều khái niệm, trừu tượng, khó hiểu, khó nhớ. 2- Phần đông các học viên chưa nhận thức được một cách đầy đủ về vai trò và sự cần thiết của việc học môn tâm lý trong hệ thống các môn học, nhất là vai trò của nó đối với hoạt động nghề nghiệp của người sĩ quan, nên có biểu hiện xem nhẹ. 3- Quá trình trả thi, kiểm tra, học viên chưa hiểu thực chất nội dung và liên hệ, vận dụng thực tiễn không sát. 4- Khi ra trường, khả năng ứng dụng tri thức tâm lý học vào giải quyết các tình huống, nhiệm vụ cụ thể còn rất hạn chế.
       Những bất cập trên đây do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, trong đó một nguyên nhân rất cơ bản thuộc về chủ quan của đội ngũ giảng viên đó là: quá trình giảng dạy thường “thuần lý luận” mà chưa thực sự chú trọng nâng cao tính thực tiễn trong từng chủ đề, bài giảng cũng như các hình thức sau bài giảng. Điều này được biểu hiện trên một số phương diện như cơ bản sau đây: 1- Có biểu hiện của sự dàn trải các đơn vị kiến thức theo mô tuýp lôgic truyền thống đó là suôi theo chiều “thuận” mà chưa mạnh dạn sử dụng và đưa vào bài giảng các yếu tố “nghịch” trong mối tương quan với yếu tố “thuận” và sự phù hợp lôgic nhận thức của người học, nhằm khẳng định hay phủ định một vấn đề, luận điểm nào đó. 2- Trừu tượng hóa các quá trình, hiện tượng, phẩm chất, thuộc tính tâm lý – ý thức do chưa chỉ ra được đầy đủ các dấu hiệu và biểu hiện cụ thể, sinh động, đa dạng, phong phú của chúng trong thực tiễn cuộc sống mỗi quân nhân hay tập thể đơn vị - xã hội. 3- Việc khu biệt các quá trình, hiện tượng, thuộc tính, phẩm chất tâm lý – ý thức có lúc chưa rõ ràng; đồng thời, chưa chỉ ra được mối tương quan, sự ảnh hưởng và mối quan hệ biện chứng giữa chúng, làm cho người học hiểu không tường minh và thiếu lôgic, dẫn đến thiếu thuyết phục. 4- Biểu hiện “thuần tâm lý” do việc vận dụng tri thức các môn khoa học khác cũng như thực tiễn xã hội (đất nước, quân đội, nhà trường, đơn vị, chiến tranh) vào giải quyết từng đơn vị kiến thức, chủ đề bài giảng cũng như vận dụng tri thức tâm lý học hướng vào chức trách, nhiệm vụ của người sĩ quan còn rất hạn chế. 5- Quá trình giảng dạy vẫn thiên về truyền thụ kiến thức là chủ yếu, chưa quan tâm đúng mức đến việc định hướng tư tưởng và hướng dẫn phương pháp, hành động cho người học, thậm chí có biểu hiện không coi trọng. 6- Tính khái quát lý luận không cao, nội dung cũng như ví dụ minh họa chưa phản ánh, cập nhật kịp thời sự vận động, biến đổi và phát triển của thực tiễn tình hình đất nước, quân đội, nhà trường, đơn vị.
          Từ những luận giải về thực trạng các vấn đề trên đây, để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy tâm lý học quân sự trong các nhà trường quân đội hiện nay cần thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả các nội dung cơ bản dưới đây:
        Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm, nguyên tắc thực tiễn trong từng chủ đề bài giảng cũng như mỗi đơn vị kiến thức…Đó chính là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin; của tâm lý học Mác xít; Tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quan điểm và nguyên tắc thực tiễn luôn giữ vai trò chủ đạo, định hướng xuyên suốt quá trình nghiên cứu, giảng dạy tâm lý học quân sự. Trước hết, quá trình giảng dạy phải tuân thủ nghiêm ngặt luận điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường cơ bản của quá trình nhận thức chân lý đó là: từ trực quan sinh động (thực tiễn) – tư duy trừu tượng – thực tiễn. Trong vòng khâu ấy, thực tiễn luôn giữ vai trò vừa là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc; đồng thời, lại là điểm xuất phát cho một vòng khâu mới trong sự vận động, phát triển, cứ như vậy làm cho quá trình nhận thức chân lý của con người ngày càng đầy đủ hơn, chính xác hơn, cao hơn. Theo đó, quá trình giảng dạy tâm lý học quân sự phải hiện thực hóa, thực tiễn hóa về nguồn gốc, bản chất, con đường biện pháp và cơ chế hình thành, phát triển cũng như sự biểu hiện của các hiện tượng tâm lý – ý thức, giúp cho người học dễ nhận diện, tiếp thu. Nói về vấn đề này, trên cơ sở vạch ra quy luật quá trình nhận thức và giải thích một cách duy vật các hiện tượng, đặc điểm tâm lý người, Lênin quan niệm: tâm lý học là một trong những khoa học “cấu thành lý luận về nhận thức và phép biện chứng”[1]. Thực tiễn ở đây cần phải hiểu đầy đủ cả tồn tại thực tiễn, hoạt động thực tiễn, quan hệ thực tiễn, nội dung thực tiễn, giá trị thực tiễn …(xã hội – lịch sử). Nhất quán quan điểm và nguyên tắc này, tâm lý học Mác xít khẳng định, mọi hiện tượng tâm lý – ý thức người đều có nguồn gốc từ hiện thực khách quan bên ngoài (thực tiễn xã hội – lịch sử), đồng thời nó được biểu hiện sịnh động và cụ thể ở chính thực tiễn xã hội – lịch sử ấy. C.Mác viết: “Lịch sử công nghiệp và sự tồn tại đối tượng hóa đã hình thành của công nghiệp là quyển sánh đã mở ra của những lực lượng bản chất của con người, là tâm lý con người bày ra trước mắt chúng ta một cách cảm tính…Tâm lý học – quyển sách ấy, nghĩa là chính cái bộ phận dễ cảm thấy nhất, dễ tiếp xúc nhất của lịch sử không mở ra cho tâm lý học này – không thể trở thành khoa học thực sự có nội dung phong phú và hiện thực[2]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Học phải đi đội với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn; lý luận không gắn với thực tiễn là lý luận suông, còn thực tiễn không trên cơ sở lý luận soi đường thì đó là thực tiễn mù quáng.
Hai là, Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp giảng dạy tâm lý học quân sự theo hướng nâng cao tính thực tiễn. Đây là một đòi hỏi tất yếu khách quan, đáp ứng với sự vận động, biến đổi và phát triển toàn diện của nhiệm vụ cách mạng, đặc biệt là nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở. Trong khi hệ thống giáo trình, giáo khoa, sánh tham khảo về tâm lý học quân sự thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng (nội dung đã mang tính lạc hậu nhiều, không cập nhật được các biến đổi của thực tiễn đất nước, quân đội, nhà trường, đơn vị…) thì việc chuẩn bị nội dung bài giảng (giáo án) cần mang tính sáng tạo cao theo hướng mạnh dạn vượt qua những “khuôn mẫu” lý luận bằng cách gạt bỏ những yếu tố thứ yếu, lạc hậu và đưa vào các nội dung mới (phản ánh được hơi thở của thực tiễn), thiết thực, phù hợp với từng nhà trường, từng đối tượng học viên cụ thể. Qúa trình đó, từng bức chuẩn hóa, chính xác hóa, khái quát hóa và sắp xếp đúng lôgic các đơn vị kiến thức (cả lý luận và thực tiễn), làm cho dễ dạy và dễ học.

                      





[1] . Lê-nin, Bút ký triết học, Nxb Sự thật, H, 1963, tr 374.
[2] . C.Mác, Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Nxb Sự thật, H, 1962, tr 139-140.
PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO HỌC VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH DẠY – HỌC Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY


Lý luận chủ nghĩa Mác lê nin về con đường nhận thức chân lý của con người là “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn”. Đây chính là sự khái quát về bản chất, mục đích của quá trình phản ánh tâm lý – ý thức của con người. Đồng thời, đây cũng là đòi hỏi khách quan, hợp quy luật của quá trình tác động sư phạm nhằm phát triển tâm lý – ý thức con người theo mô hình nhân cách cụ thể.
Theo từ điển Triết học thì: Tư duy là hình thức cao nhất của sự phản ánh tích cực hiện thực khách quan – quá trình trong đó con người so sánh các tài liệu thu được từ nhận thức cảm tính hoặc các ý nghĩ khác nhau, phân tích chúng, suy xét, luận chứng để từ các tài liệu hoặc các ý nghĩ đó rút ra các ý nghĩ khác với tri thức mới.
Dưới góc độ Tâm lý học, khái niệm tư duy được hiểu là một quá trình nhận thức phản ánh gián tiếp và khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng của thế giới khách quan.
Quá trình phản ánh tâm lý của con người diễn ra từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa đầy đủ đến hoàn thiện, từ hình thức đến bản chất… thông qua các cấp độ thấp nhận thức khác nhau từ cảm tính đến lý tính .Trong đó, cấp độ tư duy là trình độ phản ánh tâm lý cao nhất, sâu sắc và đầy đủ nhất chỉ có ở con người. Tư duy được hình thành và phát triển trên cơ sở chất liệu thu thập được của các quá trình phản ánh cảm tính (cảm giác; tri giác), sử dụng các quá trình tâm lý trung gian như trí nhớ, chú ý. Thông qua và nhờ quá trình tư duy mà phản ánh tâm lý của con người mang tính chủ thể và sáng tạo rất cao, cho phép con người nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn về các thuộc tính bản chất, các mối quan hệ, liên hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Đồng thời, cũng nhờ quá trình tư duy mà con người tác động và cải tạo được hiện thực khách quan (trực tiếp là đối tượng nhận thức) phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người. Sự phản ánh của tư duy khác về chất so với các quá trình phản ánh cảm tính ở chỗ nó phản ánh một cách gián tiếp, khái quát các thuộc tính, các mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng của thế giới khác quan. Kết quả của quá trình tư duy không chỉ dừng lại ở việc nhận thức sâu sắc và đầy đủ về thế giới, đối tượng mà nó còn vạch ra con đường, cách thức, biện pháp cải tạo thế giới khách quan cũng như đối tượng nhận thức cụ thể. Cũng nhờ có tư duy mà phản ánh tâm lý của con người khác về chất so với phản ánh tâm lý của động vật. Như vậy, có thể nói, tư duy là “tài nguyên” riêng có của con người, “là năng lực đặc trưng cơ bản nhất của con người”.
Trong cuộc sống, hoạt động của con người nói chung, trong hoạt động dạy và học nói riêng, tư duy có vai trò hết sức quan trọng đối với việc bảo đảm nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả hoạt động. Dạy - học là một hoạt động đặc thù của con người nhằm truyền thụ - lĩnh hội hệ thống tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử, phát triển toàn diện nhân cách theo mục tiêu, yêu cầu (mô hình nhân cách cụ thể). Trong đó, chú trọng hình thành hệ thống các phẩm chất, năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và phát triển năng lực tư duy cho người học, làm cơ sở cho tự học, tự hoàn thiện nhân cách và đáp ứng yêu cầu hoạt động nghề nghiệp – hoạt động xã hội nhất định.
Quá trình sư phạm quân sự ở Trường Đại học Chính trị (Trường Sĩ quan Chính trị) với mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội, đặc biệt là đội ngũ chính trị viên có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Mục tiêu, yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội và đội ngũ chính trị viên đặt ra phải phát triển toàn diện nhân cách cho họ; trong đó chú trọng phẩm chất chính trị - đạo đức và hình thành, phát triển hệ thống kỹ năng nghề nghiệp như: kỹ năng tổ chức; kỹ năng lãnh đạo – chỉ huy; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng hiểu chiến sĩ; kỹ năng tổ chức hoạt động nhận thức cho chiến sĩ; kỹ năng đánh giá kết quả; kỹ năng giáo dục thuyết phục… Để đáp ứng yêu cầu đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, giảng viên một mặt cần nắm chắc và hiểu đúng về bản chất, đặc điểm, các giai đoạn, các thao tác tư duy; nhận thức được vị trí, vai trò của tư duy làm cơ sở phát triển năng lực tư duy độc lập, sáng tạo và nhất là năng lực tư duy chính trị, tư duy lý luận và tư duy quân sự cho học viên. Đồng thời, bản thân mỗi cán bộ, giảng viên phải tu dưỡng và rèn luyện phát triển năng lực tư duy khoa học, tư duy lý luận và tư duy chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục – đào tạo của nhà trường cả trước mắt và lâu dài.
Đối với người giảng viên, quá trình dạy – học muốn đạt hiệu quả cao phải biết vận dụng sáng tạo và có hiệu quả vấn đề tư duy vào tất cả các khâu, các bước và toàn bộ quá trình sư phạm. Trên cơ sở đó, biết phát huy tính tích cực tư duy của học viên trong quá trình dạy - học để góp phần nâng chất lương, hiệu quả. Có như vậy sẽ giúp học viên mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của bản thân, từ đó làm cho họ nhận thức được sâu sắc hơn các vấn đề được trang bị, kích thích họ tìm tòi nghiên cứu những cái mới, cái chưa biết… trong lĩnh vực hoạt động chuyên môn của mình. Đồng thời, thông qua đó cũng giúp cho người giảng viên kịp thời điều chỉnh nội dung, hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với nhận thức của người học. Chính vì vậy, việc vận dụng quá trình tư duy trong dạy học môn công tác xây dựng Đảng cần hết sức được chú trọng nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của Nhà trường nói chung và phát triển tư duy cho học viên nói riêng. Tuy nhiên, để vận dụng tốt quá trình này trong dạy- học môn công tác xây dựng đảng tại Trường Đại học Chính trị hiện nay, người giảng viên cần làm tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, trong quá trình xây dựng nội dung dạy học, người giảng viên cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau:
Một là, xây dựng bố cục và nội dung bài giảng phải phù hợp với logic nhận thức nói chung (tức là phải đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó…); phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lý và khả năng nhận thức của người học.
Hai là, quá trình phân tích, luận giải nội dung bài giảng phải phản ánh được đầy đủ ý nghĩa, cơ sở khoa học, nội dung cụ thể của vấn đề cũng như sự biểu hiện, vận động, phát triển của vấn đề đó trong thực tiễn.
Ba là, nội dung bài giảng phải thường xuyên cập nhật thông tin để kịp thời phản ánh những cái mới, cái sáng tạo vào các tình huống cụ thể; đồng thời, chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên.
Bốn là, trang bị hệ thống tri thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn đảm bảo cho người học có được vốn kiến thức sâu, rộng về công tác xây dựng đảng cũng như các khoa học cận chuyên ngành, liên ngành, quân sự.
Năm là, bảo đảm tính toàn diện nhưng có chiều sâu, chú ý nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm, trọng điểm của nội dung bài giảng.
Sáu là, phải nắm chắc các giai đoạn của tư duy (giai đoạn hình thành vấn đề; thiết lập giả thuyết; kiểm tra giả thuyết); đặc điểm của tư duy (tư duy chỉ nảy sinh trong “tình huống có vấn đề”; tính gián tiếp và khái quát của tư duy; tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ và nhận thức cảm tính); nắm chắc các thao tác, hình thức của tư duy.
Thứ hai, Người giảng viên phải xác định được mục tiêu, phương hướng, tiêu chí của từng chủ đề bài giảng để lựa chọn và quyết định về nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học, cũng như xác định hình thức kiểm tra, đánh giá hiệu quả sau bài giảng.
Căn cứ vào chương trình giáo dục, giáo trình, chuẩn kiến thức, kỹ năng xác định loại kiến thức và đích cần đạt của mỗi mục, từ đó lượng hoá các mục tiêu cụ thể của từng mục. Trong đó, cần phải đặc biệt chú ý nhấn mạnh nội dung cơ bản, mối liên hệ các nội dung, xu hướng phát triển và hướng vận dụng chúng trong thực tiễn nghề nghiệp nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo cho người học.
Thứ ba, cần xác lập mối quan hệ giữa các nội dung thông tin trong bài học theo yêu cầu có tính hệ thống khái quát hoá, để xác định kiến thức trọng tâm và các kiến thức cơ bản cũng như sự liên hệ giữa chúng. Các kiến thức trong từng đề mục đều có liên quan với nhau nên trong quá trình giảng dạy cần được sắp xếp theo một trật tự logic nhất định. Đồng thời, cần lựa chọn các hình thức diễn đạt nội dung cho phù hợp, xác định các hoạt động của học viên và từ các hoạt động của học viên mà xác định các hoạt động dạy của giảng viên. Việc lựa chọn các hoạt động dạy học phải đảm bảo các yêu cầu: tổ chức được các hoạt động nhận thức cho học viên, đáp ứng được mục tiêu, rèn luyện kỹ năng tư duy…. Giảng viên cần chuẩn bị một số câu hỏi mang tính khái quát các kiến thức theo định hướng ý đồ xây dựng tiến trình giảng dạy.
Thứ tư, trong quá trình thực hành giảng dạy, người giảng viên cần tuân thủ đúng quy luật của quá trình nhận thức của người học (từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn); tuân thủ đúng quy luật của tư duy và quy luật phát triển tư duy, vận dụng linh hoạt các hình thức, thao tác tư duy trong dạy học. Tích cực đưa học viên vào các “Tình huống có vấn đề” nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo cho học viên; tăng cường thực hành, thực tập vớ nhiều nhình thức đa dạng, phong phú để phát triển hệ thống kỹ năng nghê nghiệp cho học viên. Bên cạnh đó, cần sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học tích cực, tiến tiến, thường xuyên đưa học viên vào những “tình huống có vấn đề” trong dạy học để kích thích tính tích cực tư duy, tạo nên sự đam mê, tính tò mò của người học trong quá trình nghiên cứu nội dung bài giảng. Kiên quyết chống truyền thụ một chiều, nhồi nhét kiến thức, thày đọc, trò ghi…