Niềm tin là định hướng giá trị được xác
định vững chắc trong nhận thức và chi phối hành động của cá nhân. Niềm tin có
vai trò hết sức quan trọng đối với con người. Nó không chỉ tác động đến trí tuệ
mà còn tác động đến tình cảm. Niềm tin có thể làm thay đổi ý thức, động cơ và
lối sống của cá nhân. Đối với bất kỳ tôn giáo nào, niềm tin tôn giáo bao giờ
cũng chiếm vị trí trung tâm. Thuật ngữ “tín đồ” trong ý thức của chúng ta đồng
nghĩa với khái niệm “con người có niềm tin tôn giáo”. Việc tìm hiểu niềm tin
tôn giáo có một vị trí đặc biệt trong việc nghiên cứu những khía cạnh tâm lý
của tôn giáo. Bởi lẽ, nó là một trong những đường nét chính trong việc phác
thảo chân dung tâm lý của những người theo tôn giáo. Mặt khác, việc nghiên cứu
này sẽ góp phần làm sáng tỏ bản chất của tôn giáo.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng đã
chú ý đến mối liên hệ giữa niềm tin tôn giáo và các trạng thái tâm lý của con
người. Nhà triết học Đêmôcrit (khoảng 460 - 370 TCN) cho rằng, con người thường
rơi vào những hoàn cảnh khó khăn, họ khó có thể khắc phục được, họ dao động
giữa niềm hy vọng và sợ hãi. Do vậy, con người đã tin vào các lực lượng không
tồn tại trên thực tế để tìm kiếm sự che chở và giúp đỡ.
Nguồn gốc của niềm tin tôn giáo được nhà
triết học cổ điển Đức Lútvích Phơbách (1804 - 1872) bàn đến trong tác phẩm “Các
bài giảng về bản chất tôn giáo”. Ông xem tôn giáo như là sự tha hoá các đặc
tính của con người - con người dường như nhân đôi mình trong gương mặt của
thượng đế. Theo Phơbách, các trạng thái tâm lý đã sinh ra tôn giáo, đã tạo nên
niềm tin tôn giáo, khách thể tôn giáo (các lực lượng siêu nhiên) nằm trong con
người. Đó là một khách thể nội tại. Khách thể ấy có một vị trí đặc biệt đối với
những người theo tôn giáo. Các thần linh đối với họ là những thực thể ưu tú
nhất, thực thể đầu tiên và tột cùng. Do con người có mối liên hệ đặc biệt với
khách thể tôn giáo nên niềm tin tôn giáo cũng là niềm tin rất đặc biệt - một
niềm tin mà con người không mấy khi rời bỏ được.
Khi lý giải về nguồn gốc, bản chất của
niềm tin tôn giáo, các nhà tâm lý học đã có những cách tiếp cận và có những
quan điểm khác nhau , thậm chí đối lập nhau về vấn đề này.
Theo cách tiếp cận từ góc độ sinh học có
các đại biểu tiêu biểu như: Nhà tâm lý học Mỹ G.A.Coe cho rằng con người tồn
tại bản năng tôn giáo như tồn tại bản năng tái tạo nòi giống; Một nhà tâm lý
học người Mỹ khác là R.V.Berxoi đã giải thích các hiện tượng tôn giáo, đặc biệt
là niềm tin tôn giáo mang tính di truyền đặc biệt, chúng có cơ sở sinh học nằm
trong cấu trúc của vỏ não và mang tính vô thức. Các đại biểu của trường phái
Phân tâm học đã thử nghiệm tìm hiểu nguồn gốc của niềm tin tôn giáo qua các bản
năng sinh học, qua những kích thích của con người trong xung đột với các chuẩn
mực xã hội (giải thích nguồn gốc tôn giáo bằng “mặc cảm Ơdip”), lý giải sự hình
thành tôn giáo bằng một loại tình cảm mang tính chất tính dục và vô thức…
Như vậy, các nhà tâm lý học theo hướng
sinh học đã giải thích niềm tin tôn giáo (cũng như các khía cạnh tâm lý của nó)
như một hiện tượng mang tính bản năng và vô thức. Sự tồn tại của nó nhờ qui
luật di truyền. Các nhà nghiên cứu theo hướng này đã hoàn toàn phủ nhận vai trò
của các yếu tố xã hội đối với sự hình thành và phát triển của tôn giáo. Quan
điểm sinh học nêu trên về nguồn gốc của tôn giáo nói chung và niềm tin tôn giáo
nói riêng đã bị các nhà tâm lý học mác - xít và những người tiếp cận nghiên cứu
tôn giáo theo khuynh hướng xã hội phản đối. Mặt khác, trên thực tế hiện nay,
quan điểm này rất khó tìm được chỗ đứng trong hệ thống các quan điểm khoa học
bàn về tôn giáo. Tuy nhiên, cần có sự đánh giá khách quan những thành tựu
nghiên cứu về hệ thần kinh cấp cao của con người trong thế kỷ XIX và XX đã đóng
vai trò to lớn đối với việc tìm hiểu và lý giải các đặc điểm tâm lý của những
người theo tôn giáo, cũng như những khó khăn của họ trong việc từ bỏ tôn giáo
(như các kết quả nghiên cứu của A.A. Uxtonski (1875 - 1942), đưa ra học thuyết
về những đặc điểm cơ bản của nguồn gốc các kích thích ở bán cầu đại não, cho
phép hiểu được nhiều đặc điểm của đời sống tâm lý các tín đồ; I.P.Páplốp, với
khái niệm “động lực có tính khuân mẫu” có ý nghĩa to lớn trong việc giải thích
một số khía cạnh của hành vi tôn giáo như hành vi có tính khuôn đúc của các tín
đồ trong các nghi lễ tôn giáo…)
Hướng tiếp cận nghiên cứu niềm tin tôn
giáo từ góc độ xã hội, trước hết phải kể đến các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
C.Mác (1818 - 1833) đã chỉ ra tính hư ảo
của tôn giáo. Theo C.Mác, tôn giáo là trái tim của thế giới không có trái tim,
là tinh thần của xã hội không có tinh thần, là tiếng thở dài của chúng sinh bị
áp bức. Tôn giáo chỉ là mặt trời ảo tưởng, vận động xung quanh
bản thân mình. Bởi vậy, niềm tin tôn giáo là niềm tin vào “những bông hoa tưởng
tượng”. Ph.Ăngghen (1820 - 1895) cho rằng, tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là
sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người, chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế. Niềm tin
tôn giáo chỉ là niềm tin vào lực lượng không tồn tại trên trần thế - sản phẩm
của quá trình trừu tượng hóa lâu dài, hình ảnh trong quan niệm của con người.
V.I.Lênin (1870 - 1924) có những nhận định tương đồng với C.Mác và Ph.Ăngghen
trong việc phân tích về tôn giáo và niềm tin tôn giáo. Theo Lênin, niềm tin tôn
giáo là niềm tin vào thần thánh, ma quỉ, vào những phép mầu… của con người bất
lực trước cuộc đấu tranh chống thiên nhiên. Đó là lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế giới bên
kia của những người lao động nghèo khổ, bần cùng và bất lực trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp bóc lột.
Erix From (1900 - 1980), nhà tâm lý học
Mỹ gốc Đức là một đại diện của phái Phân tâm học mới. Những quan điểm về tâm lý
học tôn giáo nhân đạo của From dựa trên những quan điểm phân tâm của Freud. Ông
nghiên cứu những khía cạnh tâm lý của tôn giáo từ những hiện tượng tâm thần,
xem xét tâm thần như hình thức cá biệt của tôn giáo. Theo From, nguồn gốc của
niềm tin tôn giáo và tôn giáo nói chung không chỉ do những cảm xúc sợ hãi, mà
còn xuất phát từ những xung đột xuất hiện trong quá trình tồn tại của con
người. Một mặt, con người là một phần của tự nhiên, mặt khác với trí tuệ của
mình, con người muốn chinh phục tự nhiên. Con người không bao giờ thoả mãn với
những gì đã có của bản thân, cũng như cái mà môi trường xung quanh đem lại. Con
người mong muốn, tìm hiểu, khám phá và giải quyết những bí ẩn về sự tồn tại của
mình. Nhưng con người lại thường gặp phải những trở ngại thực tại. Chính xung
đột giữa trí tuệ của con người với khả năng thực tế để thoả mãn là cơ sở tồn
tại của tôn giáo.
Trong hướng tiếp cận xã hội về niềm tin
tôn giáo, có một hướng tiếp cận theo quan điểm lịch sử. Đó là cách tiếp cận
theo tiến trình phát triển của loài người. Những người theo khuynh hướng này
cho rằng, lịch sử phát triển loài người đã làm thay đổi nội dung tâm lý của tôn
giáo. Hướng tiếp cận này đã lấy xã hội nguyên thuỷ làm điểm xuất phát để nghiên
cứu. Theo họ, cần tìm hiểu tiền đề và nguồn gốc tâm lý tôn giáo của xã hội
nguyên thuỷ để giải thích nguồn gốc tâm lý tôn giáo của con người.
Nhà dân tộc học người Anh B.Malinôpski
(1884 - 1942) đã phân tích khá sâu sắc nguồn gốc tâm lý của ma thuật.
Thông qua các nghi lễ, ma thuật đã cung cấp cho con người cách khắc phục những
nguy hiểm xuất hiện trong cuộc sống thực tiễn theo cách hoang sơ của người tiền
sử. Ma thuật giúp con người đạt được những mục đích của mình với niềm tin. Ma
thuật giúp con người giữ cân bằng trạng thái tâm lý trong hoàn cảnh sợ hãi. Như
vậy, ma thuật có chức năng quan trọng là tạo ra tinh thần lạc quan ở con người,
giúp con người có niềm tin, nghị lực để hy vọng chiến thắng những khó khăn, sợ
hãi trong cuộc sống. Song, cần nói thêm rằng niềm tin do ma thuật đem lại
dựa trên sự hư ảo của con người.
Một
cách tiếp cận khác trong xu hướng tiếp cận niềm tin tôn giáo từ góc độ xã hội
là cách tiếp cận theo quan điểm thần học.
Nhà
thần học Karl Barth (1886 - 1968) cho rằng, niềm tin phản ánh sự đối xử từ bi
của thượng đế đối với con người. Theo ông, niềm tin của các tín đồ đạo Kitô bắt
đầu từ thượng đế. Đó là niềm tin vào sự hùng hậu và sức mạnh vô biên của Thượng
đế. Đồng thời, các tín đồ lại ý thức về sự nhỏ bé, yếu ớt của mình. Theo ông,
niềm tin tôn giáo được cấu thành từ hai mặt tương phản: sức mạnh của lực lượng
siêu nhiên và sự yếu ớt của con người trước lực lượng đó. Thực ra, hai mặt này
trong niềm tin tôn giáo không đối lập nhau mà có sự gắn bó rất chặt chẽ với
nhau. Ý thức về sự nhỏ bé của mình, con người đi tìm kiếm sự che chở là cho ý
thức đó càng sâu sắc thêm, niềm tin vào Thượng đế càng mãnh liệt hơn.
P.Tillich lại có cách giải thích khác về niềm tin tôn
giáo. Theo ông, niềm tin tôn giáo là sự ham thích cao nhất của cá nhân, chiếm
vị trí trung tâm trong đời sống tinh thần, có thể làm thay đổi cấu trúc của vô
thức và ý thức của con người. Trong niềm tin tôn giáo, con người thực hiện được
giao tiếp giữa bản thân và Thượng đế, khắc phục được xung đột giữa chủ thể và
khách thể.
Cách
tiếp cận xã hội học về niềm tin tôn giáo là một hướng tiếp cận đáng chú ý. Max
Weber (1864 - 1920) nhà tư tưởng lớn người Đức, chuyên nghiên cứu về xã hội học
và tôn giáo cho rằng, đạo đức về niềm tin là một trong những biểu hiện của một
thái độ, một cách ứng xử theo tôn giáo. Trong khi phân tích về tôn giáo, ông đã
đặt nó trong mối liên hệ với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển
xã hội nói chung. Ông muốn chứng minh rằng, các khái niệm tôn giáo trên thực tế
là nhân tố quyết định đối với thái độ ứng xử về kinh tế và do vậy, nó là một nguyên
nhân dẫn đến sự biến đổi kinh tế trong các xã hội.
Từ sự
phân tích trên cho thấy, niềm tin tôn giáo là một niềm tin đặc biệt. Tính đặc
biệt này không phải do tôn giáo là một vấn đề xã hội vừa mang tính bộ phận,
tính khu vực, vừa mang tính toàn cầu mà do khách thể tôn giáo qui định. Nguồn
gốc của tôn giáo nói chung, của niềm tin tôn giáo nói riêng suy cho cùng vẫn do
điều kiện xã hội lịch sử - xã hội quyết định. Đứng trên quan điểm của tâm lý
học mác xít, chúng ta phủ nhận quan điểm cho rằng niềm tin tôn giáo có nguồn
gốc từ các yếu tố sinh học. Qua nghiên cứu về niềm tin tôn giáo, có thể khái
quát một số đặc điểm cơ bản của niềm tin tôn giáo như sau:
Thứ
nhất, niềm tin tôn giáo là niềm tin hư ảo. Tính hư
ảo này thể hiện ở chỗ những người theo tôn giáo hướng đến các lực lượng siêu
nhiên, tìm kiếm sự che chở và giúp đỡ của các lực lượng này. Cùng với việc
hướng đến các lực lượng thần thánh, họ còn tin vào và hướng tới một cuộc sống ở
thế giới khác. Các lực lượng siêu nhiên (lực lượng thần thánh) là những lực lượng không
tồn tại trong cuộc sống của chúng ta. Đó là lực lượng do con người tạo nên bằng
nhận thức và tình cảm của mình. Lực lượng này có thể xuất phát từ một đối tượng
có thực trong cuộc sống (một vật thể hay một con người nào đó, ví dụ: Bà Chúa
Kho, Đức Thánh Trần, Chúa Giêsu…) hay những đối tượng hoàn toàn do con người
tưởng tượng ra, hư cấu nên, chẳng hạn như Đức Chúa Trời… Các lực lượng siêu
nhiên này tuy không tồn tại trong cuộc sống hiện tại của con người, nhưng với
những người theo tôn giáo thì chúng có ảnh hưởng lớn (thậm chí quyết định) cuộc
sống hiện tại và cuộc sống sau này của họ.
Niềm tin vào lực lượng siêu nhiên đã phát
triển từ mức độ thấp đến mức độ cao cùng với sự phát triển của xã hội loài
người. Các hình thức tôn giáo sơ khai của những người nguyên thuỷ như ma thuật,
Bái vật giáo, Tôtem giáo đã phản ánh niềm tin vào các đặc tính siêu nhiên của
các vật thể vật chất (như một loài động vật, một loại cây nào đó). Trong quá
trình phát triển của tôn giáo cùng với sự phát triển của xã hội, các lực lượng
siêu nhiên ngày càng tách khỏi những yếu tố tự nhiên. Trong ý thức của con
người lúc này các lực lượng siêu nhiên tồn tại dưới dạng như yếu tố tinh thần,
như một hình thức cao của sự tồn tại chi phối thế giới vật chất và không đối
lập với thế giới này. Như vậy, các lực lượng siêu nhiên đã biến đổi từ các vật
thể vật chất thành các thực thể phi vật chất.
Theo quan điểm duy vật, thì những tư
tưởng và biểu tượng về lực lượng siêu nhiên là sự phản ánh các lực lượng thực
tại vào đầu óc con người. Hay nói cách khác, chính bản thân lực lượng siêu
nhiên không tồn tại khách quan. Chúng chỉ là những khách thể hư ảo
do con người tạo nên. Nhưng đối với các tín đồ thì các khách thể này là có thật
và họ tin vào sự tồn tại của nó. Các khách thể mà những người theo tôn giáo
hướng tới, tin vào cái gì đó rất thần bí, tồn tại trong cảm xúc, mà con người
hiểu được, chúng tồn tại trong ý thức cá nhân và ý thức xã hội, trong quan hệ
nhận thức của con người với thực tại.
Những người theo tôn
giáo không chỉ tin vào sự tồn tại của các lực lượng siêu nhiên, mà họ còn tin
vào một thế giới khác, ở đó con người sẽ tiếp tục sống cuộc sống thứ hai
của mình sau khi kết thúc cuộc đời ở trần thế. Thế giới đó theo cách gọi của
Kitô giáo, Hồi giáo… là “Thiên đường”, “Địa ngục”, theo phật giáo là “cõi Niết
bàn”… Vậy Thiên đường là gì? Địa ngục là gì? Tại sao người ta lại mơ ước đến
Thiên đường và sợ hãi phải đày xuống Địa ngục?
Thiên đường theo đạo Thiên Chúa là một
địa chỉ mà ai cũng ước mơ được tới. Nơi đó mỗi cành cây đều phủ đầy hoa thơm,
quả ngọt, nơi đó có những thảm cỏ mượt mà, mãi mãi xanh tươi, những dòng sông
trong xanh, những dòng suối đầy sữa tươi, rượu vang với hương vị tuyệt vời. Nơi
đó luôn luôn có nắng ấm và ở đó con người không cần phải e thẹn, ghen tuông và
sợ hãi, mọi vật đều không có tuổi, không biết đến cái chết và bệnh tật. Chính
tại nơi đó, những con người đầu tiên - Ađam và Êva đã được Thượng đế tạo ra,
rồi đuổi họ đi vì họ phạm tội ăn trái cấm. Thiên đường, nơi
đã sinh ra con người và chính là nơi con người ước mơ được quay về. Như vậy,
Thiên đường là thế giới cực lạc, ở đó mọi nhu cầu, mọi mong ước của con người
đều được thoả mãn. Đặc biệt, con người được trường tồn vĩnh viễn, không phải lo
lắng đến đau khổ, bệnh tật và những đe doạ khác.
Trái
ngược với Thiên đường là Địa ngục. Các tín đồ Hồi giáo cho rằng Địa ngục là nơi
ghê rợn, lửa cháy đùng đùng, khói cuộn ngút ngàn. Những người bị đày xuống nơi
đây cổ phải đeo gông xiềng, mình lằn roi vọt, chịu đủ mọi cực hình tra tấn,
chẳng bao giờ ngóc đầu lên được. Đạo Thiên Chúa coi Địa ngục là nơi ở sau khi
chết của những người sống không tin vào đạo và phạm nhiều tội ác. Đạo Phật coi
địa ngục là cõi khổ, là nơi đày đoạ của những chúng sinh khi sống đã phạm nhiều
tội ác. Có nhiều loại Địa ngục, tuỳ theo mức độ phạm tội mà con người bị đày
xuống loại Địa ngục tương ứng, theo luật nhân quả nghiệp báo.
Điều đặc biệt là trong Kinh thánh không
nói đến kết cục của Thiên đường (vườn Eđen ).
Cho nên các tín đồ tin rằng Thiên đường vẫn còn tồn tại ở đâu đó. Lịch sử đã
từng chứng kiến nhiều cuộc hành hương đầy mê muội và thảm khốc về vườn Eđen (Thiên đường). Tất cả
các cuộc hành hương này đều thất bại. Đó mãi mãi chỉ là một giấc mơ, một ảo ảnh
mà thôi. Theo thống kê ở 5 nước Cộng đồng Châu Âu, có tới gần 50% tín đồ theo
đạo Thiên Chúa giáo, 43% tín đồ theo đạo Tin Lành và 8% những người không theo
đạo muốn trở lại Thiên đường. Khi nói đến niềm tin tôn giáo như một niềm tin hư
ảo (niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên; niềm tin vào một thế giới mãi mãi
chỉ là ước vọng của con người) chúng ta cần phân tích sâu hơn khía cạnh tâm lý
của vấn đề này.
Ở đây cái khát khao dựa vào lực lượng
thần thánh nhằm tìm kiếm sự che chở và giúp đỡ, các ước muốn về một cuộc sống
cực lạc và vĩnh hằng là một nhu cầu của con người. Nhưng đây lại là một nhu cầu
không bao giờ có thể biến thành hiện thực. Hay nói cách khác, đây là nhu cầu hư
ảo, một khát vọng to lớn mà không bao giờ đạt tới được. Theo qui luật của tâm
lý học, những nhu cầu nào mà chưa được thoả mãn thì nó còn là động lực thúc đẩy
hoạt động của con người (từ nhận thức tới tình cảm và hành vi). Do nhu cầu tôn
giáo là nhu cầu hư ảo, nên nó mãi mãi là động lực thôi thúc con người, nó mãi
mãi trở thành khao khát, ước vọng và sự vươn tới của con người.
Chính
điều này làm cho tôn giáo chưa thể mất đi và nó còn tồn tại lâu dài trong xã
hội loài người. Đây chính là biện pháp tâm lý hết sức khôn ngoan và tinh vi mà
các tôn giáo đã tìm ra được để thâm nhập vào đời sống của con người, tác động
và kích thích con người để duy trì và mở rộng sự tồn tại của chúng và cũng
chính là một khía cạnh tâm lý rất quan trọng mà chúng ta cần chú ý khi nghiên
cứu về tôn giáo. Nếu chúng ta không quan tâm tới khía cạnh tâm lý này thì không
thể lý giải được bản chất của các hiện tượng tôn giáo cũng như các tôn giáo nói
chung.
Thứ hai, niềm tin tôn giáo là niềm tin bền
vững ở các tín đồ.
Nói đến niềm tin là nói đến một định
hướng giá trị vững chắc trong nhận thức và hành động của con người. Nhưng niềm
tin tôn giáo lại là một niềm tin hết sức bền vững, một sự bền vững đặc biệt so
với các niềm tin khác ở các tín đồ. Sự bền vững của niềm tin tôn giáo thể hiện
ở chỗ, những người theo tôn giáo tin vào lực lượng siêu nhiên, vào thế giới hư
ảo một cách mê muội và mù quáng. Vì niềm tin tôn giáo của mình, họ có thể sẵn
sàng hy sinh tất cả (kể cả tính mạng của mình). Tính bền vững của niềm tin tôn
giáo còn thể hiện ở chỗ cá nhân tin tưởng vào niềm tin đó đến cùng và đó là
niềm tin họ sẽ theo đuổi trong suốt cuộc đời của mình - một niềm tin dường như
không thể thay đổi. Đây cũng là một yếu tố cơ bản để giải thích tinh thần “tử
vì đạo” tới mức mê muội của các tín đồ, là lý do để giải thích sức sống của tôn
giáo cũng như sự bám rễ vững chắc của hiện tượng này trong đời sống xã hội.
Chẳng hạn như ở nước ta, năm 1954, thế lực thù địch cách mạng tuyên truyền
“Chúa Kitô đã vào Nam”, “Đức Mẹ rời bỏ Bắc Việt”… làm cho 55 vạn tín đồ đạo
Thiên Chúa giáo ở miền Bắc đã bỏ nhà cửa, ruộng vườn để di cư vào Nam. Hay các
vị thánh nhân của Garnlai (bang Uttar Pradesh, vùng Himalya, Ấn Độ) ăn chay,
nhịn ăn kéo dài, đày ải thể xác, từ biệt mọi ham muốn của con người, mọi nhu
cầu của con người, tự nguyện sống nghèo khổ, biệt lập trong các hang động hoặc
sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để hy vọng được đến gần các vị thần Ấn Độ giáo…;
các tín đồ vì tin vào những lời tiên đoán vô căn cứ về “ngày tận thế” đã dẫn
đến những vụ tự sát tập thể, gây nên cái chết thương tâm cho hàng trăm tín đồ
(điển hình như vụ tự sát tập thể của gần 900 tín đồ của giáo phái “Dân đền” ở
Guyana năm 1978…).
Qua các dẫn chứng trên cho thấy, một niềm
tin tôn giáo bền vững sẽ đưa các tín đồ đến những hành động thiếu minh
mẫn một cách mù quáng, mà họ vẫn tin rằng đó là những hành động cao cả theo chỉ
giáo của thánh thần. Tín đồ làm điều đó với sự mãn nguyện cao, không một chút
ân hận. Sự sâu sắc của niềm tin tôn giáo không chỉ làm cho cá nhân tín đồ đi
đến những hành động có kết cục bi thảm, mà còn có những hành vi gần như mang
tính vô thức. Họ sẵn sàng tin và hành động theo những tin đồn không hề có tính
lôgíc và khoa học. Những hành động của họ không theo các qui trình hoạt động
trí tuệ thông thường. Ở đây, không có sự phân tích, đánh giá các yếu tố của sự
kiện để tìm ra những mặt hợp lý và không hợp lý của sự kiện để đi đến một quyết
định đúng đắn.
Một số nhà tâm lý học đã cố gắng lý giải
về sự bền vững của niềm tin tôn giáo. Theo L.Phectingơ, có 3 yếu tố tạo nên sự
bền vững này: Nhận thức về tôn giáo trong cuộc sống cá nhân và trong hệ thống
định hướng giá trị; Hoàn cảnh sống mà các tín đồ tiếp cận, thông qua các sinh
hoạt tôn giáo; Áp lực của cộng đồng tôn giáo đến các tín đồ. Hai nhà tâm lý học
người Mỹ là D.Betston và L.Ventis cho rằng, sự bền vững của niềm tin tôn giáo
là do khả năng giữ gìn một số đặc điểm tâm lý của tín đồ, bất chấp các yếu tố
thực tế và sự mâu thuẫn giữa chúng.
Ngoài các yếu tố góp phần tạo nên sự bền
vững của niềm tin tôn giáo, còn một yếu tố rất quan trọng, tồn tại trong ý thức
của tín đồ là niềm tin về sự cứu thế con người của các lực lượng thần thánh. Ở
đây, cần quay trở lại một vấn đề đã được nêu ở trên là niềm tin về một sự cứu
thế được hình thành từ hai yếu tố có vẻ như tương phản, nhưng rất thống nhất là
sự ý thức về khả năng hùng mạnh của thần thánh và sự yếu đuối, bé bỏng của bản
thân con người. Là một hiện tượng tâm lý- xã hội, niềm tin tôn giáo có tác dụng
gắn kết các cộng đồng tôn giáo
Như vậy, xét về bản chất, niềm tin tôn giáo không
phản ánh đúng nhận thức của con người và không phù hợp quy luật khách quan. Bởi
lẽ, nó chỉ hướng tới khách thể mà chúng ta không biết được, không tiếp cận
được, còn nhận thức của con người có thể hiểu được các hiện tượng, sự vật của
thực tại. Có thể nói, niềm tin tôn giáo là niềm tin không dựa trên những luận
cứ lôgíc, không có căn cứ khoa học. Nhưng đối với những người theo tôn giáo nó
lại là lẽ sống, là cứu cánh của cuộc đời. Người ta có thể chấp nhận mọi gian
khổ và khó khăn, thậm chí đổi cả tính mạng của mình để phụng sự cho niềm tin
ấy.
Từ những phân tích ở trên về các đặc điểm
của niềm tin tôn giáo, chúng ta có thể rút ra nhận xét: niềm tin tôn giáo là
một niềm tin rất bền vững, một niềm tin hướng đến các lực lượng và thế giới
không tồn tại. Theo qui luật tâm lý học, chính tính hư ảo đã góp phần là cho
niềm tin tôn giáo tồn tại và sâu sắc thêm. Mặt khác, một niềm tin bền vững đã
làm cho một số tín đồ có những hành vi thiếu minh mẫn và cực đoan. Cũng chính
do các đặc điểm này mà tôn giáo đã bị không ít người lợi dụng vào các hoạt động
tín ngưỡng tiêu cực, không phù hợp với lối sống văn hoá như mê tín, dị đoan,
buôn thần, bán thánh hay lợi dụng vào các mục đích chính trị làm ảnh hưởng xấu
đến đời sống xã hội. Tuy nhiên nó không thể xóa bỏ một cách nhanh chóng, chủ
quan, mà còn là cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, khó khăn phức tạp, Muốn
vậy, phải giác ngộ quần chúng nhân dân để họ từ bỏ niềm tin hư ảo, mù quáng.
Nắm được đặc điểm cơ bản của niềm tin tôn
giáo sẽ giúp chúng ta đề ra được những chủ trương, biện pháp phù hợp và có hiệu
quả trong tuyên truyền, giáo dục những người theo tôn giáo, để họ có thể phát
huy và cống hiến tiềm năng của mình cho công cuộc đổi mới đất nước, nhằm xây dựng
một xã hội ấm no, hạnh phúc, công bằng và văn minh.
Hiện nay, cả nước ta có 6 tôn giáo lớn:
Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Hoà hảo. Số tín đồ của 6 tôn giáo lớn
chiếm tỷ lệ 19,4% dân số, với hơn 18 triệu người. Tín đồ các tôn
giáo đại bộ phận là nông dân và nhân dân lao động. Trong những năm qua, đời
sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào các
tôn giáo được cải thiện, cơ sở thờ tự được tu bổ, xây mới khang trang, đẹp đẽ.
Các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi. Do những thành tựu của đất
nước, do đời sống tín ngưỡng, tôn giáo được cải thiện, đồng bào tôn giáo tăng
thêm niềm tin vào Đảng và Nhà nước. Đồng bào ngày càng nhận rõ lợi ích của bản
thân và lợi ích của tôn giáo mình gắn bó mật thiết với lợi ích của đất nước. Ý
thức dân tộc và trách nhiệm của đồng bào được nâng lên; đồng thời ý thức và
tình cảm tôn giáo ngày càng phát triển.
Tuy
nhiên, tình hình tôn giáo hiện nay còn có những biểu hiện phức tạp, tiềm ẩn
những nhân tố có thể gây mất ổn định. Một số người chưa tuân thủ pháp luật còn
tổ chức truyền đạo trái phép; còn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê
tín dị đoan. Nhiều đồng bào tôn giáo chưa thật sự thông hiểu đầy đủ luật pháp
và chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, khi tình cảm tôn giáo bị kích
động, đồng bào dễ bị lôi cuốn vào những hoạt động trái pháp luật ở một số nơi,
nhất là ở vùng dân tộc thiểu số (khu vực Tây Nguyên, Tây bắc), một số người đã
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành hoạt động chống đối, kích động tín
đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị. Điển
hình là hai vụ bạo loạn chính trị diễn ra ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004 vừa
qua đã chứng minh điều đó.
Trên
cơ sở kiến thức tâm lý học về niềm tin tôn giáo và thực tiễn công tác tôn giáo
ở nước ta trong thời gian vừa qua cho thấy, để thực hiện tốt phương hướng, các
nhiệm vụ công tác tôn giáo cần thực hiện tốt hệ thống các giải pháp chủ yếu sau
đây:
Một
là, Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan
điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo là một vấn đề xã hội nhạy cảm và
phức tạp, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác,
niềm tin tôn giáo của các tín đồ là một niềm tin vững chắc, không dễ từ bỏ. Vì
vậy, để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo không được nóng vội, áp đặt chủ quan mà
trước hết cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ
trương, chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên,
nhân dân, nhất là trong chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn
giáo. Giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của
Tổ quốc, làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã
hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữ gìn và phát huy truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân
tộc và nhân dân; tôn trọng tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc và đồng bào có
đạo, thông qua đó tăng cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo
và không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau trong nhân dân ta; đồng thời tạo ra cơ sở để đấu tranh chống những tà
đạo, những hoạt động mê tín, dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm hại tới lợi ích Tổ
quốc, dân tộc và nhân dân.
Hai là, tăng cường và đổi mới công tác vận
động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở.
Đại bộ
phận tín đồ tôn giáo ở nước ta là quần chúng nhân dân lao động. Để giúp các tín
đồ hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo, là cơ
sở cho đồng bào sống “tốt đời, đẹp đạo”, là một tín đồ ngoan đạo, đồng thời
cũng là một công dân tốt đòi hỏi các cấp, các ngành cần thực hiện tốt qui chế
dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào tín
đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với
sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo. Tăng cường và đổi mới công tác tuyen
truyền, vận động quần chúng, nhất là đối với đồng bào công giáo; vùng dân tộc
ít người, vùng sâu, vùng xa, biên giới ...Phát huy vai trò và hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, của các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền chủ
trương, chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn
giáo. Đặc biệt, cần quan tâm củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
ở cơ sở xã, phường, thị trấn, nơi có đông đồng bào tôn giáo sinh sống; khơi dậy
và phát huy tinh thần yêu nước, trách nhiệm chính trị của đồng bào công giáo.
Thực hiện tốt các hoạt động của tổ công tác của các địa phương, kết hợp với
quân đội, công an, đoàn thanh niên...trong tuyên truyền, vận động nhân dân.
Ba là, quan tâm đúng mức, từng bước nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào theo tôn giáo và đồng bào vùng dân
tộc ít người.
Xuất phát từ nguyên tắc quyết định luận
duy vật các hiện tượng tâm lý, để tạo cơ
sở vững chắc cho đồng bào theo tôn giáo; đồng bào dân tộc ít người tin tưởng
vào đường lối chính sách của Đảng, yên tâm cống hiến sức lực, trí tuệ của mình
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần tăng cường đầu tư và thực hiện có
hiệu quả các dự án, chương trình, mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển
kinh tế - văn hoá - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân
các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ tôn giáo và vùng dân
tộc miền núi còn nhiều khó khăn. Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng
phương án cụ thể, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực
thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để kích động chia rẽ nhân dân, chia
rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Khuyến khích các tôn giáo đã được Nhà
nước thừa nhận tham gia thực hiện xã hội hoá các hoạt động y tế, văn hoá, giáo
dục… của Nhà nước phù hợp với chức năng, nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và
qui định của pháp luật. Từng bước thống nhất chủ trương, biện pháp xử lý vấn đề
nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo, không để
xảy ra tranh chấp gây bất ổn chính trị tại các địa bàn, nhất là những địa bàn
trọng điểm, nhạy cảm.
Bốn là, Tăng
cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tốn giáo hiện
nay còn nhiều bất cập cả về số lượng, trình độ mọi mặt, nhất là hiểu biết về
tín ngưỡng, tôn giáo vfeef phong tục, tập quán của đồng bào. Đây là trở ngại
rất lớn đối với công tác thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Do vậy, trước hết cần củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo
của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xây dựng và thực hiện
tốt công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bảo đảm chế độ, chính
sách đối với đội ngũ làm công tác tôn giáo. Quan tâm thoả đáng việc đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ làm công tác tôn giáo các cấp. Cán bộ làm công tác tôn giáo ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải được bồi dưỡng, huấn luyện để hiểu biết
phong tục tập quán, tiếng nói của dân tộc nơi mình công tác.
Năm
là, Một số vấn đề rút ra đối với Quân
đội nhân dân Việt Nam
Quân đội ta là quân đội của dân, do dân
và vì dân. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quần chúng nhân dân. Các địa
bàn chiến lược thường là nơi có đông đồng bào tôn giáo như các đô thị lớn, vùng
ven biển, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc…, cơ sở chính trị một số vùng tôn giáo
còn yếu, kinh tế - xã hội còn chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào còn nhiều khó khăn, dân trí thấp, kẻ thù luôn tìm cách lợi dụng
vấn đề tôn giáo gây mất ổn định. Công tác tôn giáo được xác định rõ là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị nói chung, của quân đội ta nói riêng. Do đó, cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần nhận thức sâu sắc vấn đề này. Trên cơ sở nắm chắc
kiến thức tâm lý học về vấn đề tôn giáo; đường lối chính sách của Đảng, Nhà
nước về tôn giáo, đề xuất nội dung, biện pháp tiến hành công tác vận động tôn
giáo của đơn vị trong tình mới. Tăng cường mối đoàn kết quân - dân vùng đồng
bào tôn giáo. Giữ vững và phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tuyên
truyền vận động để đồng bào và chức sắc tôn giáo ngày càng tin tưởng vào Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; tiến hành hoạt động tôn giáo phù hợp với luật
pháp, có đường hướng hành đạo gắn bó với chế độ, với dân tộc; đồng thời nhận rõ
và tự giác đấu tranh với mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực
thù địch, góp phần giữ vững ổn định về mọi mặt, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích
cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương tôn giáo. Đây là nội dung
trọng tâm của công tác dân vận vùng tôn giáo nhằm đạt mục tiêu mà chỉ thị
58/TTg của Thủ tướng chính phủ đã xác định là: ổn định về chính trị, phát triển
kinh tế xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, quốc
phòng an ninh vững chắc, có nếp sống văn minh, lành mạnh, góp phần làm thất bại
chiến lược “Diễn biến hoà bình” và sẵn sàng đối phó thắng lợi các tình huống
khác. Bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ là người tin theo các tôn giáo khi
tại ngũ để khi xuất ngũ là lực lượng nòng cốt cho các địa phương trong các tôn
giáo./.